Trang

Hiển thị các bài đăng có nhãn Trung Quốc. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Trung Quốc. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 24 tháng 12, 2012

Quốc tế chưa bao giờ và sẽ không bao giờ công nhận đường 'lưỡi bò'


Tuy có những đánh giá khác nhau về nội dung và tính chất của “đường lưỡi bò”, một số học giả Trung Quốc và Đài Loan vẫn cố tình khẳng định rằng, đường này đã được quốc tế công nhận rộng rãi.

Quốc tế chưa bao giờ và sẽ không bao giờ công nhận đường 'lưỡi bò'
Quốc tế chưa bao giờ và sẽ không bao giờ công nhận đường 'lưỡi bò'

Các học giả Đài Loan giải thích, đường này thể hiện yêu sách đối với các đảo, đá, bãi cạn nửa nổi nửa chìm trong phạm vi “đường lưỡi bò” từ năm 1946. Còn các học giả Trung Quốc cho rằng, đây là đường biên giới truyền thống trên Biển Đông và Trung Quốc yêu sách không chỉ các địa vật mà cả vùng nước bên trong và kế cận.
Theo họ, trước những năm 1960 và 1970, Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và các nước Đông Nam Á khác đều không đưa ra phản đối yêu sách “đường lưỡi bò”. Điều đó chứng tỏ, các nước này đã công nhận và mặc nhiên chuẩn y đường này cũng như “tính chất lịch sử” của nó. Điều đó cũng chứng tỏ, các quốc gia này đã công nhận cả 4 quần đảo (Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa) thuộc chủ quyền Trung Quốc.

Nhưng sự thật lại không phải như vậy.

Trước hết, phải khẳng định ngay rằng, kể từ khi Trung Quốc xuất bản bản đồ có “đường lưỡi bò” từ năm 1948 đến năm 2009, nước này chưa bao giờ đưa ra yêu sách chính thức vùng nước nằm trong “đường lưỡi bò” là “vùng nước lịch sử”.

Đại diện của Trung Quốc tham gia Hội nghị của Liện Hợp Quốc về Luật Biển lần thứ 3 đã không có tuyên bố gì về “đường lưỡi bò”. Đặc biệt, trong quá trình xây dựng và công bố các văn bản quy phạm pháp luật về biển của mình, Trung Quốc cũng không hề đề cập đến “đừng lưỡi bò”. Chẳng hạn như Tuyên bố quy định lãnh hải 12 hải lý năm 1958; Luật về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp lãnh hải năm 1992; Luật về Đường Cơ sở lãnh hải năm 1996; Luật về vùng Đặc quyền về kinh tế và Thềm lục địa năm 1998; Luật về quản lý và sử dụng biển năm 2001; Luật về nghề cá năm 2004,…

Theo luật pháp quốc tế, một yêu sách có liên quan đến biên giới lãnh thổ quốc gia hợp pháp phải thể hiện rõ ràng, công khai ý chí về chủ quyền trên lãnh thổ mà quốc gia đó yêu sách. Những hành vi bí mật không thể tạo nên cơ sở cho quyền lịch sử; ít nhất các quốc gia khác phải có cơ hội biết được cái gì đang diễn ra.

Theo TS. Hoàng Việt, giảng viên Trường Đại học Luật TP. HCM, việc cho xuất bản bản đồ của một cá nhân mà không công bố rõ ràng trước cộng đồng quốc tế thì không thể gọi là một yêu sách lãnh thổ của một quốc gia được.

Vì Trung Quốc chưa bao giờ công bố chính thức yêu sách về vùng biển bên trong “đường lưỡi bò”, tính đến năm 2009, nên các quốc gia khác không đưa ra phản ứng chính thức gì cũng là một điều dễ hiểu. Sự im lặng đó không thể hiểu là “mặc nhiên thừa nhận” được. Chưa nói đến, trong thực tế, cộng đồng khu vực và quốc tế đã không hề im lặng mỗi khi nhìn thấy “đường lưỡi bò” xuất hiện trong các tài liệu, bản đồ, sơ đồ,… do Trung Quốc phát tán trong các diễn đàn khu vực và quốc tế.

Liên quan đến “4 quần đảo” giữa Biển Đông mà Trung Quốc khẳng định rằng, họ có “chủ quyền lịch sử”, đã được công nhận rộng rãi trên trường quốc tế, nên họ có quyền vạch ra“đường lưỡi bò” để xác định các “vùng biển liên quan”, “vùng biển liền kề”. Chúng ta hãy xem xét luận điểm này thông qua một số sự kiện chủ yếu có liên quan đến phản ứng của các nước trước những tuyên bố chủ quyền đối với các quần đảo này.

Sự kiện đáng chú ý liên quan đến hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa không thể không nhắc đến là, theo yêu cầu của ông Gromyko (đại diện của Liên Xô), trong phiên họp toàn thể ngày 5/9/1951 tại Hội nghị San Francisco, Nhật Bản phải thừa nhận chủ quyền của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đối với một loạt lãnh thổ, trong đó có các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng đề xuất này đã bị 46 nước trong tổng số 51 nước có mặt ngày hôm đó bác bỏ.

Ông Đinh Kim Phúc, giảng viên khoa Đông Nam Á, Đại học Mở TP.HCM cho biết: “Chính Thủ tướng của Chính phủ Bảo Đại Trần Văn Hữu, lúc bấy giờ, đã trịnh trọng tuyên bố trước Hội nghị ở San Francisco rằng, để xóa tan những nghi ngờ, những mầm mống xung đột về sau thì Việt Nam tuyên bố Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam như nó đã vốn có từ trước. Lời tuyên bố đó đã được ghi vào biên bản của hội nghị.”

Như vậy, trong các tuyên bố hay các thỏa thuận đa phương, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chưa bao giờ được xem là của Trung Quốc. Nói cách khác, cộng đồng quốc tế chưa bao giờ công nhận hai quần đảo này thuộc Trung Quốc. Thực tế này cùng những đòi hỏi chủ quyền của Philippines và Malaysia đối với hầu như toàn bộ hoặc một bộ phận của quần đảo Trường Sa cho thấy, không thể nói “đường đứt khúc 9 đoạn” trên Biển Đông đã được các nước khác công nhận.

Các quốc gia chỉ có thể phản đối một khi quốc gia kia đã nêu yêu sách chính thức và rõ ràng. Chúng ta đã bàn chi tiết về đặc điểm mập mờ của “đường lưỡi bò” của phía Trung Quốc. Do đó, chỉ có thể phản đối yêu sách này trong trường hợp Trung Quốc chính thức đưa ra yêu sách.

Các học giả quốc tế thống nhất cho rằng, thời điểm Trung Quốc gửi hai Công hàm ngày 7/5/2009 lên Liên Hợp Quốc, trong đó có kèm bản đồ “đường lưỡi bò” mới là thời điểm đầu tiên bản đồ này xuất hiện công khai trước cộng đồng quốc tế.

Và ngay khi “đường lưỡi bò” chính thức xuất hiện trước cộng đồng quốc tế, ngày 8/5/2009, Việt Nam đã gửi Công hàm để phản đối.

Công hàm này nêu rõ: “Các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là bộ phận của lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam có chủ quyền không thể chối cãi đối với các quần đảo này. Yêu sách của Trung Quốc đối với các đảo và vùng biển lân cận ở Biển Đông như được minh hoạ trên bản đồ đính kèm với các Công hàm CML/17/2009 và CML/18/2009 không hề có cơ sở pháp lý, lịch sử và thực tế, do đó vô hiệu.”

Ngày 8/7/2010, Indonesia, một quốc gia không hề dính líu đến tranh chấp Biển Đông, đã chính thức gửi Công hàm lên Liên Hợp Quốc để phản đối yêu sách này của Trung Quốc. Công hàm của Indonesia viết: “Cái gọi là “bản đồ đường đứt đoạn” kèm theo Công hàm số: CML/17/2009, ngày 7/5/2009 nói trên rõ ràng thiếu cơ sở pháp lý quốc tế và đi ngược lại các quy định của Công ước Luật Biển 1982 của Liên Hợp Quốc.”

Ngày 5/4/2011, Philippines cũng gửi một Công hàm lên Liên Hợp Quốc để phản đối “đường lưỡi bò” của Trung Quốc.

Trong tuyên bố ngày 23/7/2010 tại Hà Nội, Ngoại trưởng Mỹ Clinton đã lên tiếng phản đối những yêu sách biển không tuân thủ Công ước Luật biển 1982 mà “đường lưỡi bò” chính là đối tượng được nhắc đến.

Ông Marvin Ott, Giáo sư Trường Đại học Johns Hopkins cho rằng: “Bằng cách tuyên bố chủ quyền đối với hầu hết khu vực Biển Đông thông qua “đường lưỡi bò”, có nghĩa rằng, toàn bộ khu vực này thuộc về Trung Quốc thì không có một quốc gia lớn nào trên thế giới có thể ủng hộ đòi hỏi này. Mỹ không ủng hộ. Ấn Độ không ủng hộ. Cộng đồng châu Âu không ủng hộ. Australia không ủng hộ. Nhật Bản không ủng hộ. Không có nước nào ủng hộ tuyên bố này của Trung Quốc.”

GS. Erik Franckx, Trưởng Khoa Luật Quốc tế và châu Âu, Đại học Brussel, Bỉ phân tích, “những hành động vừa nêu tuân thủ các tiêu chuẩn của luật pháp quốc tế cần thiết để tạo nên các hành động phản đối có hiệu lực pháp lý, do đó, “đường lưỡi bò” không thể được sử dụng chống lại các quốc gia phản đối. Tiêu chuẩn về mặt thời gian cũng đã được đáp ứng vì các quốc gia đã phản đối ngay khi có các hành động của Trung Quốc. Yêu cầu về mục đích rõ ràng cũng được đáp ứng vì các tuyên bố của Việt Nam và các nước khác rõ ràng nhằm mục đích ngăn chặn việc có hiệu lực các hành vi pháp lý mới của Trung Quốc ”.

Bà Monique Chemillier Gendreau, Giáo sư Công pháp và Khoa học Chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu kết luận: “Điều quan trọng là phải có sự đồng ý của các quốc gia khác thì đó mới có thể coi là quyền hợp pháp. Nếu các nước khác không đồng ý thì không thể gọi là Trung Quốc có quyền và có tính hợp pháp về “đường lưỡi bò” được.”

Hơn nữa, điều đáng nhấn mạnh ở đây là, trong các văn bản quy phạm pháp luật do Trung Quốc công bố không những không nhắc đến “đường đứt khúc 9 đoạn”, mà ngay cả nội dung thể hiện trong đó còn mâu thuẫn với quan điểm chính thức của Trung Quốc về “đường lưỡi bò”.

Chẳng hạn, Tuyên bố của Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa về lãnh hải năm 1958 quy định: “Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tuyên bố: Bề rộng lãnh hải của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý. Quy định này áp dụng cho tất cả lãnh thổ của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, bao gồm lục địa và các đảo ven bờ, cũng như Đài Loan và các đảo phụ cận, Bành Hồ, Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa, Nam Sa quần đảo và tất cả các đảo thuộc Trung Quốc được tách rời khỏi lục địa và các đảo ven bờ bởi biển cả.”

Như vậy, Tuyên bố năm 1958 của Trung Quốc đã xác định rõ ràng, các đảo bị tách biệt bởi biển cả, tức là vùng biển tự do quốc tế, chứ không phải là “vùng nước lịch sử” thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Chẳng lẽ lại tồn tại vùng biển cả nằm trong nội thuỷ của Trung Quốc? Không thể có điều vô lý đó.

Thêm nữa, Tuyên bố của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa về Lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải năm 1992; Tuyên bố của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa về đường cơ sở để tính chiều rộng của lãnh hải năm 1996,… đều có những nội dung mâu thuẫn tương tự.

Thượng nghị sỹ John McCain, một chính khách và từng là ứng cử viên Tổng thống Mỹ của Đảng Cộng hoà khẳng định, tuyên bố của Trung Quốc như vậy là không đúng sự thật: “Trung Quốc đã tuyên bố đường đứt khúc 9 đoạn. Họ cho rằng, phần lớn khu vực Biển Đông thuộc về lãnh thổ Trung Quốc. Đó là một tuyên bố không đúng sự thật. Khu vực này là vùng biển quốc tế”.

Các học giả Trung Quốc còn viện dẫn một số trường hợp yêu sách vùng nước lịch sử trong thực tiễn quốc tế như yêu sách của Liên Xô cũ ngày 20/7/1957 tại vịnh Pierre Đại đế; yêu sách của Libya ngày 11/10/1973 tại vịnh Sidra. Theo họ, các ví dụ này chứng tỏ trong thực tiễn quốc tế, luật về các vịnh lịch sử đã có được một quy chế pháp lý riêng biệt và như vậy, yêu sách “đường đứt khúc 9 đoạn” của Trung Quốc là hợp pháp. Cần phải khẳng định ngay rằng, lập luận này chỉ dựa trên cơ sở một số trường hợp yêu sách quá đáng vùng nước lịch sử mà pháp luật quốc tế luôn phê phán. Các trường hợp này không tạo ra được tiền lệ trong luật pháp và thực tiễn quốc tế và không được quốc tế công nhận.

Như vậy, rõ ràng, “đường đứt khúc 9 đoạn” chiếm khoảng 80% diện tích Biển Đông, được Trung Quốc “biến hóa” thành “vùng nước lịch sử” là không có cơ sở pháp lý. Giáo sư Lý Lệnh Hoa (Trung tâm Thông tin Hải Dương Trung Quốc) đã phê phán: “Chứng cứ thật sự có sức thuyết phục, chính là sự kiểm soát thực tế… Anh nói chỗ đó là của anh, vậy anh đã từng quản lý nó chưa? Người ở đó có phục tùng sự quản lý của anh không? Có phải người khác không có ý kiến gì không? Nếu đáp án của những câu hỏi này đều là “có”thì anh thắng là điều chắc. Ở Nam Sa chúng ta không có được điều đó”.

Thứ Tư, 1 tháng 8, 2012

'Hải giám Tam Sa' lấn lướt xâm phạm ở biển Đông


Nhật báo Pháp chế của Trung Quốc đưa tin lực lượng hải giám "Tam Sa" sẽ lần lượt lên từng đảo ở Biển Đông để thực hiện cái gọi là hoạt động chấp pháp - một hành động xâm phạm trắng trợn chủ quyền của Việt Nam.

Trung Quốc ngang nhiên xây dựng trụ sở trên đảo Phú Lâm của Việt Nam Thông tin này được tờ Văn hối tại Hong Kong đăng tải lại trên số ra ngày 31/7.

'Hải giám Tam Sa' lấn lướt xâm phạm ở biển Đông
'Hải giám Tam Sa' lấn lướt xâm phạm ở biển Đông

Tờ nhật báo trên ngang nhiên tuyên bố rằng chi đội “thành phố Tam Sa” của lực lượng hải giám Trung Quốc sẽ lần lượt tiến hành kiểm tra tình hình khai thác, phát triển các đảo không người ở trên Biển Đông.

"Trọng điểm hoạt động là giám sát quản lý đối với những hành vi khai thác đá và cát, nuôi trồng và du lịch trái quy định; nếu phát hiện hành vi vi phạm pháp luật, lực lượng này sẽ tiến hành điều tra xét xử", tờ báo viết.
Theo trang Yomiuri của Nhật Bản hôm 27/7, với động thái lập thành phố Tam Sa, Trung Quốc muốn tăng cường kiểm soát hiệu quả đối với các quần đảo này. Không chỉ dừng lại ở đó, Trung Quốc còn tổ chức đại hội Đại biểu Nhân dân để bầu ra thị trưởng thành phố, tiến tới thiết lập bộ máy hành chính tại đây.

"Có lẽ, Trung Quốc muốn đặt thành phố Tam Sa làm bàn đạp cho mưu đồ khai thác tài nguyên, nguồn lợi thủy sản và phát triển du lịch trên Biển Đông," Yomiuri nhận định.

Sau khi phía Trung Quốc có quyết định thành lập cái gọi là "thành phố Tam Sa" ngày 23/6, lãnh đạo tỉnh Khánh Hòa và lãnh đạo thành phố Đà Nẵng đã lên tiếng phản đối quyết định sai trái và phi pháp này, làm tổn hại quan hệ hai nước, tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước.

Theo Vietnam+

Thứ Hai, 30 tháng 7, 2012

Vì sao Trung Quốc 'ngang nhiên' ở Biển Đông?


Những diễn biến gần đây ở khu vực tranh chấp Biển Đông cho thấy Trung Quốc đang theo đuổi một “chuỗi phản ứng quyết liệt” trong cách tiếp cận ở vùng biển này.

Tác giả bài viết, Stephanie Kleine-Ahlbrandt, là giám đốc dự án Đông Bắc Á của Nhóm nghiên cứu khủng hoảng quốc tế. 
Bắc Kinh đã phản ứng quyết liệt trong một phép thử diễn ra ở bãi cạn Scarborough tranh chấp với Philippines từ đầu tháng 4. Nhân việc Philippines dùng tàu chiến trong vụ việc liên quan tới tàu cá, Trung Quốc đã tận dụng cơ hội để khẳng định chủ quyền của họ với bãi cạn bằng cách triển khai các tàu thực thi pháp luật phi quân sự và cho phép chúng neo đậu lâu dài trong khu vực. 

Bắc Kinh không ngại ngần dùng áp lực kinh tế với Manila khi thắt chặt quy định nhập khẩu hoa quả nhiệt đới, gây tổn thất khoảng 34 triệu USD cho Philippines.

Bắc Kinh cũng công bố hàng loạt quy định hàng hải mới bao trùm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Khi những quy định ấy còn chưa ráo mực, Trung Quốc tuyên bố thành lập cái gọi là “thành phố Tam Sa” nhằm thiết lập phạm vi quản lý với một khu vực rộng lớn kể cả những nơi tranh chấp với Việt Nam và Philippines. Đầu tuần này, Bắc Kinh còn cho phép bộ Tư lệnh quân sự Quảng Châu thành lập một đơn vị đồn trú ở “Tam Sa”. 

Cũng là một phần của hàng loạt hành động gây hấn, cuối tháng 6, Bắc Kinh quyết định cho phép một trong những tập đoàn dầu khí nhà nước, CNOOC, mời các công ty năng lượng nước ngoài bỏ thầu những dự án cùng thăm dò ở nhiều phần trên Biển Đông thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. 

Khi Trung Quốc ngày càng lấn lướt trong cuộc chơi, người ta hy vọng các nước ASEAN sẽ thống nhất quan điểm về vấn đề tranh chấp. Nhưng sự thật thì ngược lại. Tại cuộc gặp các ngoại trưởng khu vực diễn ra đầu tháng ở Phnom Penh, Trung Quốc đã tận dụng cơ hội làm yếu đi sự đoàn kết của tổ chức này. Họ dùng ảnh hưởng khiến Campuchia, chủ tịch luân phiên ASEAN, ngăn chặn cuộc thảo luận thực sự có ý nghĩa về tranh chấp ở Biển Đông, thậm chí khiến lần đầu tiên trong lịch sử 45 năm, ASEAN không ra được tuyên bố chung. 

Tàu khu trục số hiệu 560 của Trung Quốc đã mắc cạn trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế của Philippines.
Tàu khu trục số hiệu 560 của Trung Quốc đã mắc cạn trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Ảnh: Getty Images

Ngay khi cuộc gặp ở Phnom Penh kết thúc đáng thất vọng, thì hàng loạt báo chí đã đưa tin về việc một tàu khu trục hải quân Trung Quốc mắc cạn gần bãi Trăng Khuyết - chỉ cách đảo chính Palawan của Philippines 110km. Bộ Quốc phòng Trung Quốc tuyên bố, con tàu chỉ thực hiện nhiệm vụ tuần tra thông thường mặc dù nơi mà nó mắc cạn hoàn toàn nằm trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Tàu khu trục này có khả năng là một phần các chuyến tuần tra theo như mô tả của người phát ngôn quân đội Trung Quốc là “sẵn sàng chiến đấu” ở Biển Đông.

Điều tàu quân sự tới vùng nước tranh chấp cũng có thể là một dấu hiệu cho thấy, Trung Quốc đã thay đổi từ việc sử dụng tàu thực thi pháp luật để phản ứng với những sự cố gần đây kiểu như ở bãi cạn Scarborough. 

Cách tiếp cận trắng trợn hơn của Trung Quốc có thể được giải thích một phần bằng thực tế là, họ không hài lòng với những gì thu được từ sự thay đổi chiến thuật năm 2011 - đặt trọng tâm hơn vào ngoại giao biển tiếp theo những hành động quả quyết. 

Chính trị trong nước cũng góp phần vào thái độ của Trung Quốc ở Biển Đông. Trước đó, khi công chúng hoang mang vì bê bối Bạc Hy Lai, thì sự cố ở bãi cạn Scarborough cung cấp cơ hội tiện lợi nhằm tạo ra sự phân tâm, đánh lạc hướng dư luận. Còn giờ đây, Trung Quốc một lần nữa không ngại ngần “khoe cơ bắp” trên biển, một phần cũng bởi thời gian chuyển giao lãnh đạo đã tới rất gần.

Tuy nhiên, giới lãnh đạo Trung Quốc nên cẩn thận vì những gì họ mong muốn. Một cách tiếp cận cứng rắn có thể dễ phản tác dụng. Nó khiến các nước trong khu vực lo ngại và tìm mọi cách “rào giậu” phòng thủ, tự bảo vệ trước một hàng xóm lớn hung hăng. Hơn thế nữa, các tranh chấp lãnh thổ thường đánh thẳng vào cảm giác chủ nghĩa dân tộc - công chúng nổi giận có thể gây áp lực với chính phủ trong những quyết định ngoại giao. Chính phủ Trung Quốc có thể tự mình mắc kẹt ở vị trí giữa sức ép khu vực, quốc tế và gánh nặng chủ nghĩa dân tộc trong nước. 

Thứ Năm, 26 tháng 7, 2012

Những tiếng nói "bồ câu" ở Trung Quốc quá yếu ớt


"Truyền thông Trung Quốc cứ ra rả rằng Việt Nam chiếm Hoàng Sa, Trường Sa, chiếm nguồn dầu khí của họ. Trung Quốc là bậc thầy của kiểu tuyên truyền "biến thủ phạm thành nạn nhân", học giả Dương Danh Dy phân tích.

- Theo ông, Biển Đông có ý nghĩa thế nào trong bàn cờ chiến lược của Trung Quốc?

- Biển Đông với Trung Quốc không chỉ là tham vọng bá quyền, mà là vấn đề sống còn. 30 năm nay, Trung Quốc đã khai thác đất liền cạn kiệt, giờ phải hướng ra biển. Nhưng thử nhìn xem, phía bắc, phía đông thì vướng Nhật Bản, Nga, Hàn Quốc, đều là các nước có quan điểm rất cứng rắn. Chỉ còn phía nam là Biển Đông, nơi các nước yếu thế hơn.

Chính vì điều này, gần đây, Trung Quốc đã đẩy mạnh các hoạt động nhằm chiếm hữu biển Đông trên thực tế. Song, điều này càng lộ ra điểm yếu của Trung Quốc rằng họ đuối lý và đang bị cô lập trên thế giới. Tứ phương đông, tây, nam, bắc, thử hỏi có ai đang là bạn của Trung Quốc? Chính các trang mạng của nước này từng băn khoăn đặt ra tình huống, Trung Quốc có mấy người bạn nếu chiến tranh xảy ra.

- Từng nhiều năm nghiên cứu Trung Quốc, ông đánh giá thế nào về những động thái gần đây của truyền thông nước này?

- Một điều tra gần đây trên mạng Hoàn Cầu của Trung Quốc đã đặt vấn đề về việc dùng vũ lực giải quyết vấn đề biển Đông và có tới 92% ý kiến tán thành. Thậm chí, có bài còn nêu ra cách đánh như thế nào. Thời báo Hoàn Cầu là con đẻ của Nhân dân Nhật báo. Tân Hoa xã có trang Sina.com, mạng quân sự có mạng phụ là Trung Quân võng... Các mạng phụ của những cơ quan truyền thông chính thống Trung Quốc không từ điều gì khi nói về Việt Nam. Rõ ràng họ đã được "bật đèn xanh", làm người dân Trung Quốc nghĩ rằng Việt Nam là kẻ thù.

Tuyên truyền chính thống của Trung Quốc về Việt Nam rất xấu, có thể nói là "bôi đen" Việt Nam suốt hàng chục năm nay. Tôi vào mạng Trung Quốc, hầu như ngày nào cũng có bài nói xấu, xuyên tạc về Việt Nam. Họ cứ ra rả rằng Việt Nam chiếm Hoàng Sa, Trường Sa, chiếm nguồn dầu khí của Trung Quốc... Trong khi đó, chúng ta tuyên truyền thông tin vào Trung Quốc rất kém.

- Tuy nhiên, đối lập với trường phái "diều hâu", một số học giả Trung Quốc cũng đã lên tiếng phản bác về yêu sách của nước này trên Biển Đông. Ông nghĩ sao?

- Thực ra, cái gọi là những học giả "bồ câu" chỉ là một nhóm rất nhỏ, không đáng kể ở Trung Quốc, có thể kể ra những cái tên như Lý Lệnh Hoa, Thịnh Hồng, Chu Phương. Tôi cho rằng, chúng ta không nên vội lấy làm mừng về những điều mà các học giả này phát biểu, dù những tiếng nói đó là rất quý. Chúng ta chưa nên coi đây như một dòng đối lập, đủ sức đương đầu với quan điểm chủ đạo của Trung Quốc về yêu sách chủ quyền, lãnh thổ. Qua theo dõi, tôi thấy tiếng nói của cộng đồng học giả có quan điểm "bồ câu" ít có ảnh hưởng đối với dư luận Trung Quốc.

- Người dân Trung Quốc, đặc biệt lớp trí thức trẻ có điều kiện truy cập Internet, đọc báo nước ngoài, tại sao họ không thấy sự vô lý của yêu sách đường lưỡi bò?

- Trong chuyện lãnh thổ, theo tôi biết, người Trung Quốc nói chung chấp nhận luận điệu của chính phủ. Hơn nữa, gần đây, những sự kiện liên quan tới Biển Đông, truyền thông Trung Quốc lại sử dụng cách tuyên truyền "biến thủ phạm thành nạn nhân". Họ là bậc thầy trong việc này. Điểm lại tất cả những tranh cãi từ xưa tới nay, giữa Trung Quốc với Liên Xô, Mỹ, Ấn Độ..., bao giờ Trung Quốc cũng nhận mình là phải, bao giờ Trung Quốc cũng đổ hết lỗi cho đối tượng. Với họ, ai trái ý đều là không đúng, là phi nghĩa.

- Trong bài phỏng vấn mới đây trên VnExpress, Giáo sư Carlyle Thayer, chuyên gia về Đông Nam Á cho rằng Trung Quốc đang cố ý tăng áp lực với Việt Nam. Theo ông, Việt Nam cần làm gì lúc này để bảo vệ chủ quyền biển, đảo?

- Tôi cho rằng, cần phải nhìn nhận rõ thế và lực của Việt Nam hiện giờ đã khác. Trước đây, chúng ta bị cấm vận, kinh tế trì trệ nhưng hiện nay GDP đã 100 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người hơn 1.000 USD. Việt Nam chưa giàu nhưng thoát giai đoạn đói kém, chúng ta đã có tiền trang bị máy bay, tàu ngầm. Quan hệ với cộng đồng quốc tế của Việt Nam đang rất tốt, nhiều nước ủng hộ ta trước sự bá quyền của Trung Quốc.

Nếu Việt Nam vạch trần thái độ, hành xử bá quyền của Trung Quốc với cộng đồng quốc tế thì tôi tin rằng Trung Quốc rất lo sợ. Trong thời buổi win - win (cùng thắng) muốn được lợi thì phải quan tâm đến lợi ích của người khác. Các nước ASEAN khác nhau về trình độ kinh tế, thể chế chính trị, văn hóa... tóm lại là khác nhau rất nhiều về quyền lợi. Vì thế Việt Nam muốn đạt được lợi ích của mình thì phải làm nhiều hơn nữa chứ đừng vội đòi hỏi người ta phải vì mình. Myanmar, Campuchia, Thái Lan có quyền lợi gì ở Biển Đông đâu mà yêu cầu người ta theo ý mình? Phải cố gắng góp phần làm tăng điểm tương đồng, đóng góp vào lợi ích chung thì mới có thể đạt được ý muốn của mình.

Theo VNEXPRESS

Thứ Tư, 25 tháng 7, 2012

Vấn đề biển Đông: Trong họa có phúc


Những hành động của Trung Quốc trên Biển Đông vừa qua đang tạo ra ba kết quả ngoài ý muốn của Bắc Kinh: lá bài tẩy bị lật, các dân tộc thức tỉnh và cộng đồng quốc tế càng nâng cao cảnh giác!

Đảo Trường Sa
Chỉ vài giờ sau khi ASEAN kêu gọi sự kiềm chế và giải pháp hoà bình cho tranh chấp Biển Đông, Trung Quốc ngay lập tức đã tái khẳng định chủ quyền đối với các quần đảo tranh chấp. Bắc Kinh tiếp tục di chuyển tàu tới bãi Chữ Thập và đưa các tàu đổ bộ đến Trường Sa. Nhưng trên nền các động thái tưởng như cũ này đã bừng phát lên một niềm hy vọng mới, hy vọng của tỉnh thức và thôi thúc phải hành động...

Ngày 22/7, báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng ở Trung Quốc đã loan tin, cử tri thuộc ba quần đảo mà Trung Quốc gọi là thành phố Tam Sa đã đi bỏ phiếu bầu Hội đồng Nhân dân. Trên thực tế, đấy là các khu vực nằm ngay trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Trước đây một tháng, chính quyền tỉnh Khánh Hòa và thành phố Đà Nẵng đã lên tiếng phản đối quyết định của Trung Quốc lập thành phố Tam Sa là xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Từ ảo thành thực


Những động thái này xảy ra chỉ một ngày sau khi người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm 20/7 nói rằng "Bắc Kinh sẵn sàng hợp tác với ASEAN để thực hiện Tuyên bố về cách ứng xử của các bên DOC", cũng như "cùng ASEAN tham vấn để hoàn chỉnh Bộ Qui tắc ứng xử của các nước trên Biển Đông COC". Là nước đã ký kết Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS), vậy mà Trung Quốc vẫn liên tục khẳng định UNCLOS "không phải là một hiệp ước quốc tế để giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ của các quốc gia, cũng không thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo cho việc giải quyết các tranh chấp".

Dư luận mấy tuần qua tiếp tục quan tâm tới động thái của Trung Quốc: mời thầu tại 9 lô dầu khí nằm trong khu vực đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam. Hành động ngang ngược này được coi như một dấu hiệu quan trọng trong bước chuyển về chiến lược hàng hải của Bắc Kinh. Từ đe dọa ảo tiến tới đe dọa thực!

Trước vụ cắt cáp tàu Bình Minh năm ngoái, Trung Quốc chỉ gây hấn lẻ tẻ đối với các hoạt động thăm dò dầu khí trên vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam. Từ vụ tàu Bình Minh cũng như vụ mời thầu lần này, Trung Quốc đã tiến một bước dài, nhằm phủ đầu bất kỳ quốc gia nào quan tâm đến các lô dầu trên thềm lục địa Việt Nam.
Từ ảo thành thực, Trung Quốc muốn thế giới quen dần với "đường lưỡi bò" mà đến ngay biên tập viên Tân Hoa xã Chu Phương, người nổi tiếng có quan điểm thẳng thắn trong làng báo Trung Quốc, đã nhiều lần phản đối và yêu cầu xoá bỏ cái gọi là "thành phố Tam Sa" mà Bắc Kinh vừa dựng lên. Trong một bài viết, ông Chu Phương nhấn mạnh: "Từ nhỏ chúng ta đã được nhìn thấy tấm bản đồ Nam Hải (Biển Đông). Một đường biên giới đứt đoạn rất thô màu hồng đưa toàn bộ Nam Hải vào bản đồ Trung Quốc. Ngày nay chúng ta biết sự thực không phải như vậy! Đường biên giới quốc gia ấy không những các nước láng giềng và quốc tế không công nhận, mà ngay các học giả Trung Quốc cũng không lý giải nổi".

Bất chấp những sự thật hiển nhiên như thế, những người có trách nhiệm ở Bắc Kinh vẫn "chống lưng" cho những luận điệu sô-vanh nước lớn, bất chấp cả lẽ phải và luật pháp quốc tế mà Trung Quốc từng đặt bút ký, có văn bản còn chưa ráo mực. Những bài viết mới đây nhất trên "Hoàn cầu Thời báo" thi nhau vu cáo Việt Nam, biến nạn nhân là các ngư dân hiền lành làm ăn trên ngư trường truyền thống bao đời nay thành tội đồ. Những bài viết ấy xúc phạm nghiêm trọng đến tình hữu nghị Việt - Hoa, đến mức một tờ báo đã phải lên tiếng, viết thế thì làm gì còn hình ảnh của một Trung Quốc trỗi dậy "trong hòa bình" (!)

Sôi động trên chính trường khu vực


Cuối tuần qua, Indonesia đã chứng tỏ là một nước đàn anh, là thành viên có trách nhiệm của ASEAN. Với 36 giờ ngoại giao con thoi của ngoại trưởng Natalegawa, chúng ta thấy việc ASEAN cần phải đoàn kết lại thành một khối quan trọng như thế nào. ASEAN đã gượng dậy sau cú vấp ngã ở Phnom Penh. Rõ ràng, sau hội nghị ngoại trưởng lần thứ 45, ASEAN chao đảo như con tàu sau bão lớn. Nhưng thay vì tìm một cái vịnh để trú, ASEAN đang ráo riết củng cố lại thủy thủ đoàn để đón những cơn gió giật có thể còn mạnh hơn!

Tất nhiên, đây chưa phải là một sự thay đổi chính sách của nước chủ nhà. Đây chỉ là sự thay đổi về chiến thuật, còn về chiến lược, do người khác "cầm cái", làm sao thay đổi được!

Một ASEAN từng chia rẽ...

Việc ASEAN "đạt lập trường chung về Biển Đông" có những ý nghĩa nhất định. Thứ nhất, cả toàn khối thấy được tính nghiêm trọng của vấn đề. Hãy nhớ lại hình ảnh mà báo chí quốc tế mô tả sau tuần ASEAN ở Phnom Penh: Từ ngày chào đời, chưa bao giờ ASEAN mất uy tín như thế.
Thứ hai, nếu toàn khối bị tê liệt do một chủ tịch luân phiên gây ra, thì một số nguyên tắc căn bản của ASEAN có thể bị/hoặc sẽ được thay đổi. Nghĩa là các ngoại trưởng có thể ra một Thông cáo chung khi chủ tịch luân phiên hành động một cách thiếu trách nhiệm. Điều này chẳng có chủ tịch nào muốn.

Thứ ba, "đạo diễn lớn" sau cánh gà điều chỉnh lại kịch bản, vì sau khi "chạy" một số "đoạn", cả đạo diễn lẫn nhân vật chính sợ sẽ bị "cháy" kịch bản nếu cứ đẩy ASEAN đến bờ vực của tan rã.

Và Việt Nam đã đóng vai trò tích cực trong những nỗ lực hàn gắn nói trên. Lập trường của Việt Nam rất nhất quán và được cả quốc tế lẫn ASEAN đánh giá cao. Tất cả 6 nguyên tắc mà ngoại trưởng Indonesia đưa ra cũng là những nguyên tắc "nền", những nguyên tắc căn bản mà Việt Nam đã, đang theo đuổi bao lâu nay. Bản thân ngoại trưởng Natalegawa đã cám ơn Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh về sự đóng góp tích cực của Việt Nam sau các cuộc tham vấn tại Hà Nội. Dư luận quốc tế, với mối thiện cảm vốn có, đánh giá cao lập trường của Việt Nam trong tuần hội nghị ASEAN ở Phnom Penh...

Ý dân là quyết định...


Trước tình thế mới đầy hiểm nguy như thế, trong lần gặp gỡ cử tri Hà Nội mới đây, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ mối tương quan giữa việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ với bảo vệ chế độ và giữ gìn môi trường hòa bình. Tổng bí thư khẳng định một tấc đất cũng phải giữ!

Trả lời cử tri Sài Gòn, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nêu rõ, lập trường trước sau như một của Việt Nam là bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Theo Chủ tịch nước, việc này không chỉ bằng nhận thức mà phải bằng hành động, tức là phải xác lập cho được chủ quyền biển đảo!

Trả lời chất vấn trước Quốc hội trước đó, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã bày tỏ quyết tâm bảo vệ biển đảo. Thủ tướng cũng hoan nghênh mọi biểu hiện yêu nước của người dân, đặc biệt là những tình cảm thiêng liêng đối với việc bảo vệ biển đảo.

Có nhiều cách để giải quyết các cuộc gây hấn trên Biển Đông. Về chính trị, Trung Quốc không tuân thủ thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Hoa. Về quân sự, phải cố gắng không để xẩy ra chiến tranh, nhưng phải chuẩn bị sức mạnh để đối phó khi cần. Ngoại giao như một khả năng thực tiễn, là nguồn lực chủ yếu được khai triển để tạo ra "sức mạnh mềm". Biển Đông đang nổi sóng trong một cuộc tranh chấp quyết liệt, nó không còn là vùng biển thái bình. Phải nhớ lời Trần Hưng Đạo "khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc..." Cần nâng cao bài học của cha ông, coi trọng liên kết khu vực để đối phó với nguy cơ xâm lược. Ngày nay, phải làm cho dư luận trong nước và dư luận Trung Quốc hiểu rằng, thời đại đã vượt qua tâm thức "đế quốc bá quyền", lấy "pháo hạm" làm luật chơi trong thiên hạ.

Những hành động của Trung Quốc trên Biển Đông vừa qua đang tạo ra ba kết quả ngoài ý muốn của Bắc Kinh: lá bài tẩy bị lật, các dân tộc thức tỉnh và cộng đồng quốc tế càng nâng cao cảnh giác!

HOÀNG THẮNG - KHẮC MAI (TUẦN VIỆT NAM)

Căng thẳng ở Biển Đông ‘có thể thành xung đột’


Một tổ chức nghiên cứu quốc tế uy tín cảnh báo rằng tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông có thể leo thang thành xung đột bởi lực lượng vũ trang ngày một lớn mạnh của các nước trong khu vực.

Đường lưỡi bò trên bản đồ do Trung Quốc tự vẽ. Ảnh: VOV.
Đường lưỡi bò trên bản đồ do Trung Quốc tự vẽ. Ảnh: VOV.

Theo Nhóm Nghiên cứu Khủng hoảng Quốc tế (ICG) có trụ sở tại Brussel, Bỉ, triển vọng giải quyết các tranh chấp "dường như bị thu hẹp" sau khi 10 nước ASEAN mới đây họp mà chưa ra được một bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông.

"Không có được sự đồng thuận về cơ chế giải quyết, căng thẳng trên Biển Đông dễ dàng diễn biến thành xung đột vũ trang. Khi các nước ASEAN còn chưa thống nhất được chính sách về Biển Đông thì luật pháp và quy định sẽ không được tuân thủ", AFP dẫn lời ông Paul Quinn-Judge, giám đốc chương trình châu Á của ICG, cho biết.

Trong khi đó, các nước tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông đặc biệt là Trung Quốc không ngừng tăng cường sức mạnh Hải quân và lực lượng bảo vệ bờ biển trong bối cảnh tranh chấp, một phần do áp lực chính trị trong nước và chủ nghĩa dân tộc của người dân các nước này. Vì thế, theo ICG, sự việc có thể diễn biến căng thẳng hơn, không loại trừ nguy cơ đối đầu trên biển.

Philippines đầu tuần này tuyên bố sẽ mua sắm thêm máy bay và tàu chiến, trong khi Đài Loan (đảo thuộc Trung Quốc và cũng tự tuyên bố chủ quyền một số nơi ở Trường Sa) có kế hoạch mở rộng cơ sở quân sự, đưa súng cối và pháo cao xạ đến khu vực tranh chấp.

Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với gần như toàn bộ Biển Đông và thực hiện nhiều hoạt động rầm rộ tại đây, bất chấp sự phản đối của các nước láng giềng như Việt Nam và Philippines. Biển Đông là nơi Trung Quốc cùng các nước thành viên ASEAN là Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei có tuyên bố chủ quyền chồng lấn.

Tàu chiến lớn nhất của Philippines mới mua từ Mỹ, đã tham gia vụ chạm mặt với Trung Quốc ở bãi cạn Scarborough/Hoàng Nham hồi đầu tháng 4. Ảnh: AFP
Tàu chiến lớn nhất của Philippines mới mua từ Mỹ, đã tham gia vụ chạm mặt với Trung Quốc ở bãi cạn Scarborough/Hoàng Nham hồi đầu tháng 4. Ảnh: AFP

Báo cáo của ICG cho rằng Trung Quốc đang "tích cực khoét sâu" sự chia rẽ bên trong ASEAN bằng cách đối xử ưu tiên với một số thành viên ủng hộ quan điểm của Trung Quốc trong tranh chấp hiện nay.

"Sự thiếu đoàn kết giữa các nước đối thủ của Trung Quốc, cộng với những điểm yếu trong cơ chế đa phương của khu vực đang gây khó khăn cho việc tìm kiếm một giải pháp", báo cáo nhấn mạnh.

"Mọi xu thế hiện nay đang đi sai hướng, và triển vọng tìm ra giải pháp đang ngày càng biến mất".

Các nước láng giềng, như Việt Nam và Philippines, chỉ trích Trung Quốc làm cho tình hình Biển Đông thêm phức tạp. Một tiếng nói từ Mỹ của thượng nghị sĩ John McCain cũng cho rằng các hành động gần đây của Trung Quốc ở Biển Đông là khiêu khích một cách không cần thiết và không phù hợp với một cường quốc.

Campuchia đẩy ASEAN vào một tương lai nguy hiểm


Thống nhất và đoàn kết nội khối ASEAN là điều quan trọng nhất cho sự sống còn của cộng đồng khối cũng như việc bảo lưu các khả năng thương lượng của khối. Nếu mỗi thành viên ASEAN sau đó chỉ chăm chăm lợi ích riêng của nước mình như Campuchia, ASEAN sẽ không có tương lai.
Tờ The Nation xuất bản tại Thái Lan ngày 15/7 đăng bài phân tích của nhà báo kỳ cựu Vint Chavala với tiêu đề "Campuchia đã đẩy ASEAN vào một tương lai nguy hiểm". Bài viết phân tích khá sâu sắc nguyên nhân sự đổ vỡ của Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN tại Phnom Penh vừa qua với trách nhiệm của một Chủ tịch luân phiên ASEAN. Trong bài báo, tác giả cũng phân tích rất rõ những xảo thuật mà phía Trung Quốc đã sử dụng nhằm cố tình gây chia rẽ nội bộ ASEAN để phục vụ một âm mưu xuyên suốt, độc chiếm biển Đông thành ao nhà. Nhận thấy đây là một tiếng nói khách quan, phân tích sâu sắc, hợp tình hợp lý về vấn đề biển Đông cũng như một số nguyên nhân căng thẳng và cả những dự báo, báo điện tử Giáo dục Việt Nam xin trân trọng đăng tải bài phân tích này để cung cấp thêm cho độc giả một góc nhìn đa chiều về sự kiện đang thu hút sự quan tâm đông đảo.
Chỉ vì đầu óc cục bộ, Campuchia đã phá vỡ mối liên kết nội khối ASEAN. Trong 45 năm lịch sử hoạt động của mình, chưa bao giờ một Hội nghị Ngoại trưởng của khối không ra được thông cáo chung sau khi thảo luận.
Ảnh chụp màn hình bài phân tích của nhà báo Vint Chavala
Ảnh chụp màn hình bài phân tích của nhà báo Vint Chavala
Trong quá khứ đã có rất nhiều quãng thời gian khó khăn và xuất hiện bất đồng trong nội bộ ASEAN nhưng chưa bao giờ dẫn đến một kết cục đổ vỡ không ra được thông cáo chung như hội nghị vừa rồi.
Khi tiếp quản ghế Chủ tịch luân phiên ASEAN trong năm nay, Campuchia đã thực hiện một lập trường kiên quyết về vấn đề biển Đông thay vì cố gắng tìm kiếm những điểm chung giữa tất cả các bên liên quan như các nước Chủ tịch ASEAN đã từng làm trong quá khứ.
Campuchia, nước Chủ tịch luân phiên ASEAN đã quyết định đặt lợi ích riêng của quốc gia mình lên trên sự đoàn kết nội khối. Về lâu dài, điều này sẽ phản tác dụng đối với cả Campuchia và ASEAN.
Động thái đó cũng có thể làm ảnh hưởng đến uy tín của Campuchia cho nỗ lực giành 1 ghế không thường trực vào Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc trong năm tới. Sớm muộn gì Campuchia sẽ nhận ra rằng hành động của họ đã hủy hoại uy tín của khối ASEAN như thế nào.
Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần đầu tiên không thể ra được thông cáo chung là vì Campuchia không làm tròn trách nhiệm của một Chủ tịch luân phiên khối
Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần đầu tiên không thể ra được thông cáo chung là vì Campuchia không làm tròn trách nhiệm của một Chủ tịch luân phiên khối
Trong sự thiếu vắng một bản thông cáo chung về những cuộc thảo luận (của các Ngoại trưởng ASEAN), hành động không thể được thực hiện trên hàng chục quyết định bởi vì thiếu một văn bản chính thức, và ban Thư ký ASEAN sẽ không thể làm bất cứ điều gì về nó. ASEAN cần ngay lập tức khắc phục hậu quả.
Kể từ giai đoạn mở rộng thành viên khối ASEAN những năm 1995 – 1999, ngày càng nhiều quan chức thừa nhận, đặc tính và cách làm việc của ASEAN đã thay đổi rất nhiều đối với việc kết nạp các thành viên mới có bối cảnh chính trị và các thông lệ khác nhau. Chỉ có Campuchia là khó khăn hơn trong việc gia nhập ASEAN vì những nguyên nhân lịch sử của nó.
Chính vì vậy Campuchia là thành viên cuối cùng được thừa nhận gia nhập khối ASEAN trong năm 1999. Khi Campuchia trở thành thành viên thứ 10 của ASEAN, nước này đã nhanh chóng phát triển mối quan hệ với Trung Quốc, một “kẻ thù” trước đó của Phnom Penh.
Trong 12 năm qua, Campuchia và Trung Quốc đã xây dựng mối quan hệ song phương, hợp tác mạnh mẽ hơn bao giờ hết, Trung Quốc cũng đã phát triển một mối quan hệ chặt chẽ với Campuchia và bằng cách nào đó, quan hệ Campuchia – Trung Quốc đã đi xa hơn một chút so với phần còn lại của ASEAN.
Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì và người đồng cấp Campuchia ông Hor Namhong trao đổi riêng bên lề cuộc họp Ngoại trưởng ASEAN tại Phnom Penh
Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì và người đồng cấp Campuchia ông Hor Namhong trao đổi riêng bên lề cuộc họp Ngoại trưởng ASEAN tại Phnom Penh
Thủ tướng Campuchia Hun Sen cho biết, Trung Quốc sẽ là cung cấp một “hỗ trợ tuyệt vời” để đẩy mạnh phát triển kinh tế và vị trí của Campuchia trong khu vực. Ông Hun Sen mong muốn được công nhận là một nhà lãnh đạo đa mang lại hòa bình và thịnh vượng cho đất nước mình cũng như khu vực.
Kể từ khi Campuchia làm Chủ tịch luân phiên ASEAN, quan hệ Campuchia – Trung Quốc được dư luận quan tâm đặc biệt. Người ta chú ý đến phản ứng của Phnom Penh đối với vấn đề biển Đông đang gây căng thẳng giữa một số nước thành viên ASEAN với Trung Quốc.
Trong khi Philippines và Việt Nam luôn nỗ lực nâng cao vai trò, tiếng nói của ASEAN trong vấn đề biển Đông trước Trung Quốc, tuy nhiên với vai trò Chủ tịch luân phiên ASEAN, Campuchia đã luôn tìm cách cản trở hoặc phá vỡ bất kỳ “chủ đề nhạy cảm” nào đối với vấn đề này.
Thống nhất và đoàn kết nội khối ASEAN là điều quan trọng nhất cho sự sống còn của cộng đồng khối cũng như việc bảo lưu các khả năng thương lượng của khối. Nếu mỗi thành viên ASEAN sau đó chỉ chăm chăm lợi ích riêng của nước mình như Campuchia, ASEAN sẽ không có tương lai.
Mỗi thành viên của khối ASEAN được phép theo đuổi lợi ích riêng của họ, đó là sự đồng thuận và không can thiệp công việc nội khối giữa các thành viên ASEAN. Nhưng không có nguyên tắc nào của ASEAN cho phép Chủ tịch luân phiên thực hiện điều này mà không cần xem xét tiếng nói của đa số các thành viên khác.
Theo GDVN

Thứ Ba, 17 tháng 7, 2012

Campuchia bán đứng láng giềng gần


Diễn đàn An ninh Khu vực ASEAN (ARF-19) dường như "tự thể hiện mình" được rất ít, khi mà trước đấy các ngoại trưởng đã xem tới 18 dự thảo Thông cáo chung về Hội nghị AMM-45, nhưng rồi tất cả đã bị hủy bỏ vì các bên không thống nhất với nhau về câu chữ.

Tuần qua, các ngoại trưởng ASEAN đã tìm cách soạn thảo một thông cáo tóm tắt quan điểm của các nước thành viên đối với những vi phạm gần đây nhất của Trung Quốc trên Biển Đông, nhưng đã không thành.

Ngoại trưởng Indonesia Marty Natalegawa tuyên bố hôm 12/7: ASEAN không ra được thông cáo chung là "vô trách nhiệm". Còn ai vô trách nhiệm thì lại là điều "bí mật công khai" khi mà đầu tuần này (10/7), Trung Quốc đã sớm trải lòng cám ơn (trước) nước chủ nhà Campuchia (!).

Ngoại trưởng Dương Khiết Trì, theo Tân Hoa Xã đưa tin, trong cuộc gặp Thủ tướng Campuchia Hun Sen trước khi diễn ra hàng loạt hội nghị ngoại trưởng, đã bày tỏ lòng biết ơn đối với "sự ủng hộ bền bỉ và kiên định" của Campuchia trong những vấn đề có liên quan đến "lợi ích cốt lõi" của Trung Quốc.

Đừng biến nạn nhân thành tội phạm!


Trong khi đó thì Campuchia lại đổ vấy trách nhiệm do Việt Nam và Philippines nên hội nghị AMM45 đã không ra được Thông cáo chung. Cú lội ngược dòng này khiến dư luận nhớ lại năm ngoái, khi xét xử tội ác diệt chủng của Khơ me Đỏ ở Phnom Penh, cũng từng có những vu khống tương tự, về "tác giả" của diệt chủng ở đất nước Chùa Tháp trước đây. Biến nạn nhân thành tội phạm là trò đổi trắng thay đen rẻ tiền.

Thế nhưng, thế lực nào đó đứng sau quên mất rằng, nhân loại đã bước sang thế kỷ 21 được 12 năm, và giờ đây thật khó cho những ai muốn đẩy quan hệ quốc tế trở lại thời trung cổ, nghĩa là các quốc gia chỉ có thể nói chuyện với nhau, duy nhất bằng võ biền!

Thông tấn xã Kyodo hôm 12/7 dẫn nguồn tin từ Bộ Ngoại giao Campuchia nói Việt Nam và Philippines yêu cầu ASEAN phải có lời lẽ cụ thể để phản ánh quan điểm của hai nước này đối với những vi phạm mới đây nhất của Trung Quốc ở Biển Đông. Một quan chức ngoại giao Campuchia (lại giấu tên) mô tả lập trường của Việt Nam và Philippines là "bắt nạt" (bullying) nước khác. Campuchia, chủ tịch ASEAN năm nay đã không hài lòng với đòi hỏi này của hai nước thành viên.

Campuchia bán đứng láng giềng gần, Trung Quốc cười thầm
Campuchia bán đứng láng giềng gần, Trung Quốc cười thầm

Theo Kyodo, Việt Nam yêu cầu Thông cáo nhắc tới "ranh giới trên biển của khu vực kinh tế đặc quyền và tranh chấp thềm lục địa giữa Philippines, Việt Nam và Trung Quốc", trong khi Philippines muốn đề cập tới "bãi cạn Scarborough" trong văn bản.

Yêu cầu trên không được chấp nhận, và 10 nước ASEAN đã không thống nhất được nội dung Thông cáo, thường được đưa ra vào cuối các hội nghị cấp cao như thông lệ. Campuchia cũng đã cảnh báo từ trước rằng, nếu tình trạng bất đồng tiếp diễn thì có thể sẽ chẳng có thông cáo chung nào hết.

Ngay tại cuộc gặp ngoại trưởng ASEAN và Trung Quốc một hôm trước đó, tranh cãi về ngôn từ Thông cáo chung trong đoạn liên quan đến Biển Đông đã diễn ra khá gay gắt. Các nguồn tin cho hay Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì nói tại cuộc họp này rằng "một số thành viên ASEAN đã có hành động khiêu khích đơn phương trong chủ đề Biển Đông (?).

Cũng theo thông tấn xã AFP ngày 12/7 trích lời quan chức Mỹ quan sát hội nghị cho biết, đã có sự nổi nóng giữa các giới chức tham gia thảo luận. Quan sát viên này nói: "Đa số các đại diện ASEAN thừa nhận rằng tổ chức này đang chịu áp lực và căng thẳng to lớn để giữ đoàn kết khi đối mặt các thách thức nghiêm trọng, chủ yếu liên quan tới Biển Đông".

Quan chức Hoa Kỳ này nhận xét rằng Indonesia, nước cũng có tuyên bố chủ quyền chồng lấn tại Biển Đông, tỏ ra muốn thỏa hiệp để đạt đồng thuận. Ngoại trưởng Natalegawa nói với báo giới: ông vô cùng thất vọng khi hội nghị ASEAN lần này không đưa ra được tiếng nói chung về Biển Đông.

Thông cáo của Ngoại trưởng Phạm Bình Minh cuối ngày 12/7 đã tóm tắt lập trường của Việt Nam. Ngoại trưởng Việt Nam "bày tỏ quan ngại về những diễn biến phức tạp gần đây ở Biển Đông, vi phạm tới quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các quốc gia ven biển; nhấn mạnh các nước phải tôn trọng các nguyên tắc của luật pháp quốc tế và UNCLOS 1982, trong đó có các quy định về tôn trọng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các quốc gia ven biển; không sử dụng vũ lực và giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình; thực hiện đầy đủ DOC; sớm xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông COC".

Trách nhiệm Trung Quốc và các nước lớn


Diễn đàn an ninh khu vực ARF-19 cùng các cuộc hội nghị ASEAN, ASEAN+3 trước đó dường như ít mang lại được điều gì mới mẻ trong việc thúc đầy đàm phán một bộ COC. Đặc biệt là báo chí Trung Quốc hoàn toàn không hề nhắc tới chủ đề Biển Đông khi phản ánh các cuộc họp của Ngoại trưởng Dương Khiết Trì tại Campuchia.

Thậm chí, tờ "Hoàn cầu thời báo", một phiên bản tiếng Anh của báo đảng ở Trung Quốc, ngày 10/7 còn đưa ra lời khuyên: "Con đường thực tế duy nhất cho Việt Nam là hợp tác với Trung Quốc để hạn chế sự xoay trục của Mỹ về châu Á". "...Thay vì làm mắt xích trong dây chuyền kiềm chế Trung Quốc, Việt Nam có thể là cột trụ để chống lại sự dính líu của Mỹ tại châu Á".

Với tư duy từ thời chiến tranh Lạnh như thế, xem ra việc đàm phán giữa Trung Quốc và ASEAN về COC, chưa thể bắt đầu sớm để hoàn tất vào cuối năm nay như ASEAN trông đợi.

Trong khi đó thì Hoa Kỳ và châu Âu ngay sau hội nghị đã ra tuyên cáo chung, trong đó lặp lại quan điểm về Biển Đông, rằng hai bên "sẽ hợp tác với các đối tác châu Á nhằm tăng cường an ninh hàng hải dựa trên luật pháp quốc tế như quy định trong UNCLOS; cũng như hỗ trợ các biện pháp tăng cường lòng tin nhằm giảm nguy cơ khủng hoảng và xung đột".

"Về Biển Đông, châu Âu và Mỹ tiếp tục khuyến khích ASEAN và Trung Quốc thúc đẩy COC và giải quyết các tranh chấp lãnh thổ và trên biển thông qua giải pháp hòa bình, ngoại giao và hợp tác".

Trong khi đó thì ba trong số năm cường quốc thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc được kỳ vọng sẽ ký vào bản "Hiệp ước khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân" (SEANWFZ) đã quyết định rút lui. Pháp, Anh và Nga cho biết họ muốn bảo lưu về một số điểm trong hiệp ước. Pháp và Nga do dự chưa muốn ký hiệp ước này vì tính đến quyền tự vệ của họ trong trường hợp bị tấn công hạt nhân. Moscow còn đề cập tới quyền của các tàu thuyền và máy bay nước ngoài thâm nhập vào khu vực không vũ khí hạt nhân. Còn Anh dẫn ra các mối đe dọa trong tương lai có thể cần họ phải vận chuyển các nguyên liệu hạt nhân qua khu vực Đông Nam Á.

Như vậy là cả 3 văn kiện đều đã không được ký lần này tại Phnom Penh. Đó là Tuyên bố ASEAN về Nghị định thư đối với Hiệp ước khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (đáng ra phải ký vào ngày 9/7 vừa qua); Ghi nhớ Thỏa thuận giữa ASEAN và Trung Quốc về hiệp ước liên quan tới SEANWFZ (theo kế hoạch ký kết vào ngày 10/7); và Nghị định thư về Hiệp ước liên quan tới SEANWFZ do nhóm 5 quốc gia thường trực Hội đồng Bảo an LHQ ký kêt vào ngày 12/7. Dù sao mặc lòng, ASEAN vẫn hy vọng, theo như lời của Tổng thư ký Surin, việc ký các văn bản này sẽ được hoàn tất cùng lúc vào tháng 11 tới đây trong kỳ Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 21".

Tương lai vẫn tiếp tục phải chờ đợi!

Không được sợ hãi trước sự đe dọa của Trung Quốc khi đàm phán


“Người đàm phán phải không chịu sức ép, sợ hãi trước sự đe dọa. Và không vì thái độ ngang ngược của họ mà người đàm phán hoang mang hoặc có những phản ứng không thích hợp”.

Bình tĩnh và khéo léo

Trước một Trung Quốc mạnh về nhiều mặt và luôn đưa ra những yêu sách không có cơ sở mà chỉ dựa vào ý thức chủ quan của họ, việc đàm phán để các bên có thể đi đến một thỏa thuận về Biển Đông dường như là vô cùng khó khăn. Chính vì vậy, những kinh nghiệm trong quá trình đàm phán với Trung Quốc về đường biên giới trên đất liền và trên Vịnh Bắc Bộ trở nên hết sức quý báu. Là người đã trực tiếp tham gia đàm phán với Trung Quốc trong nhiều năm qua về biên giới, hơn ai hết, TS. Trần Công Trục - nguyên trưởng Ban biên giới Chính phủ rất rõ những điều này.

Trao đổi về những kinh nghiệm đàm phán với Trung Quốc, TS. Trần Công Trục nói: “Trong quá trình đàm phán với Trung Quốc có rất nhiều bài học. Theo tôi, ngoài việc người đàm phán phải tuyệt đối tuân thủ những phương án mà cấp trên đã duyệt thì còn phải rất bình tĩnh, phải rất khéo léo. Đó cũng phải là người không chịu sức ép, sợ hãi trước sự đe dọa. Và không vì thái độ ngang ngược của họ mà người đàm phán hoang mang hoặc có những phản ứng không thích hợp.

TS. Trần Công Trục kể: “Trong lần chúng ta đàm phán để khai thông tuyến đường sắt Đồng Đăng – Bằng Tường, Trung Quốc luôn áp đặt quan điểm của họ là đường biên giới đi qua đường nối ray còn Việt Nam khẳng định đường biên giới đi qua một nhà mái bằng cách điểm nối đường ray là 300 m. Trong quá trình xử lý, đã có nhiều cuộc đụng độ xảy ra, rất căng thẳng.

Sau này, chúng ta phân tích thấy quan điểm mà cả 2 nước đưa ra đều có điểm chưa đúng. Hai bên cùng đưa ra những quan điểm mà đều dựa trên lợi ích của cả hai nước. Chúng ta đã kiên trì để thuyết phục họ và tìm ra giải pháp tạm thời mà hai bên có thể chấp nhận với nhau để khai thông tuyến đường sát quan trọng này: các cơ quan quản lý như công an, hải quan của cả hai nước khi đi đến hai điểm do hai nước đưa ra thì dừng lại ở đó, để cho người lái tàu kỹ thuật đi qua, còn việc giải quyết đường biên giới sẽ đàm phán sau”.

Tôn trọng sự thực khách quan và cầu thị

Ông Trục nói tiếp: “Khi đàm phán, chúng ta phải thể hiện được tính khách quan, sự cầu thị. Ở phía Trung Quốc tuy có những người ở phái diều hâu nhưng cũng có nhiều người Trung Quốc biết tôn trọng luật pháp quốc tế. Nếu điều gì chúng ta nêu ra mà chưa đúng thì chúng ta phải có bản lĩnh để phân tích và báo cáo sau đó thay đổi. Chúng ta không khăng khăng cho rằng những yêu cầu mà chúng ta đưa ra là hoàn toàn đúng khi đã phát hiện ra có vấn đề.

Bây giờ chuyện trên biển cũng thế, ai cũng biết Trung Quốc đưa ra đường biên giới “lưỡi bò” quá vô lý. Theo tôi, có lẽ một bộ phận trong số họ cũng đã thấy điều đó là phi lý bởi bằng chứng là một số học giả Trung Quốc cũng đã có ý kiến tương đối đúng đắn về việc này. Tuy nhiên do lãnh đạo Trung Quốc đã tuyên truyền rằng diện tích biển trong “đường lưỡi bò” kia là của Trung Quốc nên khi muốn rút lại lời tuyên truyền như thế thì cũng không dễ dàng và phải có quá trình để họ đảm bảo ổn định trong nội bộ. Chúng ta không chấp nhận “đường lưỡi bò” nhưng đó thực sự là một quá trình mà chúng ta phải cố gắng thuyết phục để họ hiểu sự thực khách quan mà bỏ đi”.

Theo lời ông Trục kể câu chuyện thứ hai là trong lần đàm phán để xác định đường biên giới trên biển tại Vịnh Bắc Bộ, chúng ta luôn khăng khăng rằng đường biên giới trên Vịnh này phải căn cứ theo hiệp định Pháp - Thanh ký để lại và theo đường kinh độ 108o03’¬13” kéo dài từ đường biên giới đất liền của hai nước ra phía ngoài đảo Trà Cổ làm đường biên giới trên biển…

Trung Quốc họ phản đối điều này và hai bên đã tranh cãi nhau rất nhiều. Sau đó chúng ta nghiên cứu kỹ lại, chúng ta đã có đủ tài liệu để chứng minh rằng đó không phải là đường biên giới trên Vịnh Bắc Bộ mà đó là đường ria để quản lý các đảo ven bờ mà kết thúc với độ dài 10 km chứ không kéo dài ra thêm. Việc đó thể hiện rằng chúng ta tôn trọng sự thực khách quan.

“Và tôi nghĩ lãnh đạo Trung Quốc cũng cần phải học điều này. “Đường lưỡi bò” mà họ đưa ra là hoàn toàn phi lý, vi phạm nghiêm trọng Công ước Luật Biển và họ nên bỏ ngay yêu sách này đi. Trong thời buổi hiện nay, không phải nước nào muốn xâm chiếm, muốn thôn tính nước khác cũng dễ dàng bằng các tuyên bố chủ quyền một cách không có cơ sở như vậy”, ông Trục cho biết.


Kiên trì và không từ chối sự giúp đỡ để chống lại bất công

Khi được hỏi về việc Việt Nam đòi lại quần đảo Hoàng Sa đã chiếm đóng từ năm 1974 đến nay, ông Trục nói: “Việc đòi lại Hoàng Sa không hề đơn giản mà phải có quá trình. Và chúng ta phải kiên trì để đòi lại. Theo luật pháp quốc tế thì có 2 yếu tố củng cố cho quyền lãnh thổ đó là yếu tố vật chất và ý thức. Về vật chất thì đó là sự chiếm đóng, sự hiện diện và cai quản trên quần đảo đó.

Điều này chúng ta không còn nữa do Trung Quốc đã dùng vũ lực chiếm đóng. Về yếu tố tinh thần thì chúng ta vẫn luôn khẳng chủ quyền tại quần đảo này, rằng đó là một đơn vị hành chính trực thuộc TP. Đà Nẵng. Chúng ta không bao giờ từ bỏ về mặt ý chí.

Trên phương diện pháp lý, khi đưa ra cơ quan tài phán quốc tế, họ sẽ xem xét cả hai yếu tố đó, đối với yếu tố vật chất, họ sẽ xem xét rằng yếu tố vật chất bị mất do nguyên nhân gì: tự nguyện từ bỏ hay bị xâm chiếm…. Do đó, có thể thấy rằng về mặt pháp lý, chúng ta có cơ sở vững chắc hơn rất nhiều”.

Trước thông điệp của Thời báo Hoàn cầu về việc nếu kết thân với Mỹ, Việt Nam chỉ “nhận được những đau đớn”, ông Trần Công Trục nói: “Đó được coi như một sự dọa dẫm và là một sự thường tình của người Trung Quốc bấy lâu nay. Điều đó cũng thể hiện một sự e ngại đối với Mỹ của Trung Quốc. Việc Mỹ có mặt tại Biển Đông không phải do Việt Nam muốn. Vì lợi ích của mình, Mỹ phải vào cuộc và ủng hộ cho những nước mà họ đã có cam kết về mặt pháp lý.

Khi chúng ta tính toán các mối quan hệ, chúng ta không bao giờ có chủ trương dựa vào một nước nào đó để chống lại một nước thứ 3 và càng không có tư tưởng đó khi Trung Quốc là hàng xóm của ta với những cam kết mà lãnh đạo cấp cao của hai bên đã ký kết. Nhưng Trung Quốc đã áp những điều phi lý gây ra sức ép thì chúng ta hoan nghênh sự ủng hộ quốc tế. Nếu các nước giúp chúng ta chống lại những sự bất công đó thì chúng ta không có lý do gì để từ chối sự giúp đỡ đó”.

Thứ Năm, 12 tháng 7, 2012

Đâu phải thời Chiến quốc



“Hà Nội sẽ đớn đau vì giúp Mỹ quay lại”, Hoàn Cầu Thời Báo của Trung Quốc đã cảnh cáo như vậy trong bài xã luận phát đi lúc 0g20 sáng thứ tư 11-7, sau chuyến thăm Hà Nội của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton.

Bài xã luận bắt đầu bằng răn đe rằng Việt Nam sẽ đớn đau nếu dựa vào sự hậu thuẫn của Mỹ, và kết thúc bằng bức bách rằng nếu muốn sống, Việt Nam phải chọn Trung Quốc!

Hoàn Cầu Thời Báo quá tự tin khi đánh giá rằng “Việt Nam đã thừa nhận mô hình phát triển của Trung Quốc” để rồi vừa khuyên, vừa “nhát ma” rằng “Để cho Mỹ quay trở lại (châu Á), Việt Nam sẽ dễ dàng trở thành một trong những nạn nhân đầu tiên nếu như Đông Á bị chìm trong các rối loạn chính trị”! Có một điều cơ bản mà Hoàn cầu Thời báo đã quên hay không biết, đó là suốt trong mấy ngàn năm Việt Nam vẫn tồn tại như là Việt Nam chính là nhờ dựa trên nền tảng tư tưởng “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân... Đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo” (Bình Ngô đại cáo).

Cũng thế khi hù dọa rằng các giá trị phương Tây sẽ biến Việt Nam thành nạn nhân đầu tiên khi Đông Á rối rắm, có lẽ Hoàn cầu Thời báo đã quen e ngại phe đối lập Trung Quốc vốn sốt ruột mơ “giấc mơ hoa”, mà không biết rằng người Việt đủ tri thức và từng trải để hiểu rằng “giấc mơ Mỹ” không như trong sách vở. Cho dù hiến pháp Mỹ đã bãi bỏ nạn nô lệ từ năm 1865, song 1 triệu người Mỹ (trên tổng dân số Mỹ năm đó là 35 triệu người) đã phải chết và bị thương trong bốn năm nội chiến vì vấn nạn nô lệ này. Một thế kỷ sau, người Mỹ da đen vẫn cứ phải sống trong cảnh phân biệt màu da,“separate but equal” (bình đẳng song tách biệt với nhau). Mãi đến 20-4-1971, Tối cao pháp viện Mỹ mới phán quyết đen trắng bình đẳng lên xe buýt! Thế cho nên, Hoàn cầu Thời báo, nếu có lo sợ chuyện “dân chủ, nhân quyền” thì hãy lo cho bên xứ mình trước đã.

Tất cả những thuyết giáo và hù dọa trên nhằm dẫn đến việc công khai ép buộc: “Con đường sống còn duy nhất cho Việt Nam là phối hợp với Trung Quốc nhằm hạn chế chính sách “đóng trụ” của Mỹ tại châu Á. Thay vì là một mắt xích trong sợi xích ngăn chặn Trung Quốc của Mỹ, Việt Nam có thể là một (tiền) đồn chống lại sự can dự sâu sắc của Mỹ tại châu Á”.

Đã là thế kỷ thứ 21 rồi chớ đâu phải thời Chiến quốc cách đây hai mươi mấy thế kỷ để cứ đòi chinh phạt, quy phục chư hầu tranh ngôi bá chủ! “Bài binh bố trận ngăn chặn Trung Quốc” ở đâu chưa thấy, song đã thấy Trung Quốc giương bản đồ “lưỡi bò” chiếm gần hết biển Đông, xua tàu bè húc đuổi thiên hạ, thôn tính lãnh hải và tài nguyên thiên hạ khơi khơi khai thác, thậm chí đem rao bán! Và giờ đây ra tối hậu thư: “Để sống còn hãy là (tiền) đồn chống Mỹ, bằng không sẽ đau đớn đó nhe!”.

Hoàn cầu Thời báo quên nhiều điều lắm và nhất là quên mô tả viễn tượng sau: thần phục Trung Quốc rồi “cái đường lưỡi bò” đó vẫn cứ tròng vào cổ Việt Nam và các nước khác, và rằng “liên doanh khai thác” dầu khí lúc đó bất quá cũng chỉ là làm phu phen cho “ông chủ lớn” là Tập đoàn dầu khí hải dương, Trung Quốc, và ra khơi đánh cá ngừ đại dương là dưới sự cho phép của Cục Ngư chính và Cục Hải giám Trung Quốc hoặc của chính quyền thành phố Tam Sa! Viễn tượng đó “sung sướng” hay “đớn đau”, cứ đi hỏi đứa con nít sẽ rõ.

Thứ Ba, 10 tháng 7, 2012

ARF dậy sóng biển Đông


Căng thẳng trên biển Đông sẽ là chủ đề chính tại Hội nghị ngoại trưởng ASEAN, Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN (ARF) và Hội nghị ngoại trưởng Đông Á, diễn ra từ ngày 9 đến 13-7 tại Phnom Penh (Campuchia).

Đội tàu hải giám Trung Quốc sau khi tuần tra bất hợp pháp trên biển Đông từ ngày 26-6 đã trở về Quảng Châu
Đội tàu hải giám Trung Quốc sau khi tuần tra bất hợp pháp trên biển Đông từ ngày 26-6 đã trở về Quảng Châu

Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton sẽ tham dự ARF tại Phnom Penh vào ngày 12-7. Ngoại trưởng các nước Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật, Úc… cũng sẽ tham dự. Tranh chấp và căng thẳng trên biển Đông được đánh giá là chủ đề chính tại Phnom Penh trong thời điểm Trung Quốc liên tục thể hiện giọng điệu hiếu chiến và có các hành vi gây hấn.
Tiêu biểu nhất là vụ Tổng công ty Dầu khí hải dương Trung Quốc mời thầu thăm dò dầu khí trên vùng biển của Việt Nam hay việc truyền thông Trung Quốc liên tục đòi đánh Philippines vì tranh chấp bãi cạn Scarborough. Trước thềm ARF, các học giả quốc tế tiếp tục chỉ trích chính sách của Trung Quốc trên biển Đông.

Chờ đợi đột phá về COC

Theo báo Phnom Penh Post, tối 7-7 Quốc vụ khanh Bộ Ngoại giao Campuchia Soeung Rathchavy tuyên bố các quan chức cấp cao ASEAN đã hoàn tất việc soạn thảo các yếu tố chủ chốt của bộ Quy tắc ứng xử trên biển Đông (COC). “Giờ ASEAN đã sẵn sàng đàm phán với Trung Quốc về vấn đề biển Đông” – bà Soeung Rathchavy khẳng định. ASEAN hi vọng sẽ đạt được một thỏa thuận về COC với Trung Quốc vào cuối năm nay, 10 năm sau khi ASEAN và Trung Quốc ký Tuyên bố về ứng xử của các bên trên biển Đông (DOC).
Trao đổi với Tuổi Trẻ, giáo sư Carl Thayer thuộc Học viện Quốc phòng Úc nhận định đây là thời điểm then chốt với các thành viên ASEAN và có khả năng hai bên sẽ tạo được bước đột phá về COC. Tuy nhiên, giáo sư Thayer nhận định để COC không trở thành một văn bản yếu ớt, nó cần có cơ chế mang tính ràng buộc và phân định rõ đâu là vùng tranh chấp, đâu là vùng không có tranh chấp trên biển Đông.
“Một vấn đề quan trọng nữa là làm thế nào để ngăn chặn các cơ quan hàng hải Trung Quốc không gây ra căng thẳng trên vùng biển tranh chấp – giáo sư Thayer nhận định – Nếu COC không giải quyết vấn đề này, nó sẽ chẳng khác gì DOC”.
Khó khăn lớn nhất, theo giáo sư Thayer, là việc COC chỉ quy định cách các quốc gia hành xử cho đến khi giải quyết tranh chấp chủ quyền. Tuy nhiên Trung Quốc không chỉ “đòi” chủ quyền trên biển Đông mà còn đang dùng sức mạnh để khẳng định chủ quyền một cách bất hợp pháp.
“Khi Trung Quốc tiếp tục hiếu chiến thì sẽ không có cơ sở để giải quyết tranh chấp” – giáo sư Thayer cho biết.

Ý đồ thâm độc

Trước thềm ARF, các chuyên gia và quan chức quốc tế tiếp tục chỉ trích các thủ đoạn của Trung Quốc trên biển Đông. Theo báo Philippines Star, mới đây chính quyền Philippines cho biết sẽ không đối thoại song phương với phía Trung Quốc tại Hội nghị ngoại trưởng ASEAN và ARF để phản đối việc Bắc Kinh tiếp tục gây căng thẳng ở bãi cạn Scarborough.
Hiện nay vẫn có vài chục tàu Trung Quốc lởn vởn ở khu vực này dù trước đó Bắc Kinh và Manila đã cam kết rút hết tàu ra khỏi đây. Tổng thống Philippines Benigno Aquino chỉ trích Bắc Kinh đang cố tình kéo dài căng thẳng để gây sức ép lên Philippines. Thượng nghị sĩ Philippines Defensor Santiago cho rằng việc Trung Quốc giở giọng đe dọa các quốc gia láng giềng với ý đồ thâm độc là buộc các quốc gia này phải chấp nhận khai thác tài nguyên chung trên vùng biển của mình với Trung Quốc.
“Đó luôn là trò của họ” – thượng nghị sĩ Santiago nhận định. Bà cảnh báo kể cả khi cùng khai thác chung với các nước khác thì Trung Quốc với lợi thế về công nghệ và tài chính cũng sẽ nuốt trọn nguồn lợi. Trên trang Eurasia Review, hai chuyên gia Youna Lyons và Tara Davenport thuộc Trung tâm Luật quốc tế ĐH Quốc gia Singapore lên án việc Trung Quốc đang cố tình khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên cá trên biển Đông. Bắc Kinh đang dùng tàu công xưởng để khai thác quy mô lớn và thậm chí còn khai thác trong vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia khác. Đây đều là những hành vi vi phạm Công ước luật biển Liên Hiệp Quốc.

Thứ Sáu, 6 tháng 7, 2012

Biển Đông: Câu chuyện về cá


Nguy cơ xung đột tại Biển Đông là có thật. Tranh chấp Trung-Phi về cá gần đây tạo nên “mô hình bãi cạn Scarborough”. Trung Quốc sẽ thừa cơ tiếp tục khẳng định chủ quyền tại các khu vực khác bằng việc triển khai lực lượng tàu ngư chính, hải giám. 

Biển Đông: Câu chuyện về cá
Biển Đông: Câu chuyện về cá

Thời tiết xấu vừa qua là tin tốt cho bãi cạn Scarborough, đó là một chuỗi các bãi đá và rạn san hô đang có tranh chấp tại Biển Đông. Cơn bão Butchoy đầu tháng có tác động phá vỡ hai tháng căng thẳng giữa tầu thuyền của hai nước Philippines và Trung Quốc, điều này đã khiến những nỗ lực ngoại giao hai nước giảm căng thẳng. Nhìn tổng thể thì có vẻ như tranh chấp xảy ra là do sự lớn mạnh Hải quân, tài nguyên dầu mỏ và sự trỗi dậy đầy quyết tâm Trung Quốc, tuy nhiên sự việc Scarborough vừa qua thực sự chỉ quanh câu chuyện: đánh bắt cá.

Đây có thể coi như bài học đối với trường hợp tranh cãi về đánh bắt cá thông thường, tuy nhiên cũng có thể trở thành cuộc khủng hoảng, và nó có thể làm sụp đổ toàn bộ một khu vực. Và bất chấp việc đưa ra đòi hỏi quá nhiều đối với tiềm năng dự trữ năng lượng lớn tại Biển Đông, việc đánh bắt cá đã nổi lên như một tác động có khả năng lớn gây tranh chấp. Đời sống kinh tế của các nước như là Phillipines và Việt Nam đều phụ thuộc vào biển. Và Trung Quốc thì lại là nước tiêu thụ và xuất khẩu về cá lớn nhất thế giới. Thêm nữa đánh bắt cá ven bờ ngày càng làm cạn kiệt những nguồn cá dọc khu vực Đông Nam Á, các ngư dân đành phải tiến xa hơn đến những vùng có tranh chấp.

Những điều này đang làm tăng thêm một xu hướng (đang được sử dụng) như là gây rối, tịch thu phương tiện đánh bắt cá, giam giữ và ngược đãi đối với ngư dân. Việc tiếp tục gia tăng những căng thẳng là cách mà các nước trong khu vực đơn phương sử dụng lệnh cấm đánh bắt cá để nhằm khẳng định quyền tài phán đối với các vùng biển có tranh chấp bằng việc viện cớ là nhằm bảo vệ môi trường. Đáng lo ngại là những tuyên bố về chủ quyền cũng nhằm mục đích biện minh cho việc tuần tra dân sự lớn hơn trên biển, tuy nhiên điều này lại là nguyên nhân đối với những va chạm với các tàu cá. Và một khi xảy ra chuyện tàu thuyền bi đâm vào ban đêm, tinh thần yêu nước của cả nước sẽ dâng cao và điều này hạn chế khả năng của  các chính phủ trong việc giải quyết các tranh chấp và nó gieo mầm cho những rắc rối sau này.

Cách hành xử bất hợp tác của Trung Quốc làm gia tăng trầm trọng nguy cơ tranh chấp trong khu vực, chính quyền địa phương của Trung Quốc tại các vung ven biên đã chủ động khuyến khích ngư dân nước họ tiến xa hơn tới các vùng biển có tranh chấp để nâng cao nguồn thu và bằng cách đó để thực thi chính quyền. Ví dụ như là bằng việc giảm đăng ký cho các tầu đánh cá nhỏ, chính quyền địa phương bắt buộc ngư dân phải nâng cấp và trang bị cho thuyền của họ các hệ thống định vị vệ tinh, bằng cách này họ có thể đi xa hơn, đồng thời khân cấp thông báo tới các lực lượng chấp pháp địa phương trong trường hợp xảy ra va chạm trên biển.

Trong lúc đó một vài cơ quan chấp pháp dân sự biển của Trung Quốc trực tiếp tranh đấu nhau để giành ngân sách và vị thế của minh bằng việc tăng cường chất lượng và số lượng tàu thuyền của họ. Mặc dù được trang bị vũ khí ít hơn và ít đe dọa hơn tàu hải quân, tuy nhiên tàu của lực lượng ngư chính lại  triển khai dễ dàng hơn và áp sát các cuộc chạm chán một cách thuận lợi hơn. Điều này giải thích vì sao tàu của lực lượng chấp pháp Trung Quốc giữ vị trí trung tâm trong các vụ va chạm gần đây chứ không phải tàu hải quân.

Tất nhiên là Bắc Kinh có các động cơ khác, các vụ việc liên quan đến đánh bắt cá như vụ Scaborough tạo điều kiện cho Trung Quốc khẳng định yêu sách chủ quyền bằng việc triển khai lực lượng tàu ngư chính để bảo vệ yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc theo cách được xem như là các vòng chính sách của Trung Quốc kiểu như “mô hình bãi cạn Scarborough”. Và hơn nữa là khả năng triển khai như tại Trung Quốc đang diễn ra cuộc bàn luận để làm sao đảm bảo sự hiện diện thường xuyên hơn của các tàu ngư chính tại khác khu vực tranh chấp.

Do các khu vực đánh bắt cá nay trở thành ranh giới đầu tiên đối với những tranh châp chủ quyền tiềm ẩn tại Biển Đông, một thách thức cho các quốc gia có tranh chấp sẽ là nhằm phân chia cạnh tranh nguồn lực từ các đòi hỏi về yêu sách lãnh thổ. Vậy thì tại sao không bắt đầu từ việc đánh bắt cá? Những tuyên bố chung giữa các bên yêu sách nhằm bảo vệ nguồn cá có thể giúp đảm bảo đủ lượng cá cho tất cả các bên và giảm rủi ro đối với các cuộc đụng độ sau này.

Tuy nhiên là không có cách nào khác sự thật là ASEAN là tổ chức khu vực duy nhất có khả năng giữ vai trò giải quyết thì đã không có hành động gì. Ví dụ như vụ việc tàu Trung Quốc và Philippines hằm hè nhau trong thời gian hơn hai tháng, thì ASEAN vẫn bị chia rẽ. Campuchia hiện đang giữ chiếc ghể chủ tịch ASEAN vẫn cố gắng nhằm tránh mất lòng Trung Quốc, ngăn chặn tuyên bố yêu cầu các nước thực hiện kiềm chế. Nguyên chủ tịch ASEAN, Indonesia đã tham gia làm trung gian để giải toả căng thẳng giữa Trung Quốc và Philippines. Trong thời gian Indonesia giữ chức chủ tịch ASEAN năm 2011, sau mười năm thảo luận, ASEAN cuối cùng đã có thể đồng ý những hướng dẫn thực hiện COC cho Biển Đông. Giờ đây việc hoàn thiện COC đang được thảo luận và nó có thể sẽ là một chặng đường dài việc trước để tránh xảy ra những Scarborough khác trong tương lai. Và điều đo không phải là câu chuyện về cá.

Theo Foreign Policy

Trung Quốc vẫn cố tình gây căng thẳng ở biển Đông


Trung Quốc lại dấn thêm một bước nữa trong việc gây căng thẳng trên biển Đông bằng tuyên bố xây dựng một trung tâm nghiên cứu thủy sản tại khu vực mà nước này gọi là TP.Tam Sa ở biển Đông.

Hôm 5/7, tờ People Daily dẫn tuyên bố của giới chức Cục hải dương và ngư nghiệp tỉnh Hải Nam (Trung Quốc) cho biết, trung tâm nghiên cứu về nuôi cá, tôm và tảo cũng như các loại thủy sản nói chung này sẽ được xây dựng tại khu vực bãi Walker, một bãi cạn ở khu vực bãi Macclesfield và bãi cạn Scarborough, nằm ở phía Tây Philippines, mà Bắc Kinh gọi là quần đảo Trung Sa.

Đây là bước tiếp theo trong kế hoạch "quản lý biển Đông" của Trung Quốc sau khi Quốc vụ viện nước này chính thức phê chuẩn thành lập cái gọi là "thành phố Tam Sa" trong đó bao gồm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, bãi Macclesfield và bãi cạn Scarborough cùng vùng biển xung quanh trên biển Đông.

Không chỉ vậy, Bắc Kinh vẫn tiếp tục duy trì hoạt động của nhóm tàu hải giám ở biển Đông gần khu vực quần đảo Trường Sa của Việt Nam để tiến hành hoạt động quan sát gần trong một nhiệm vụ mà Trung Quốc gọi là "thu thập những bằng chứng nhằm bảo vệ chủ quyền". Theo các nhà phân tích, hành động này có thể dẫn tới một lập trường cứng rắn hơn của Bắc Kinh đối với các quốc gia có tranh chấp chủ quyền ở biển Đông.

Hải giám Trung Quốc đi đầu trong chính sách bành trướng biển Đông. (CNS)
Hải giám Trung Quốc đi đầu trong chính sách bành trướng biển Đông. (CNS)

Chuyên gia phân tích quân sự ở Thượng Hải ông Nghê Lạc Hùng cho rằng, các tàu hải giám nói trên sẽ tập trung bằng chứng để chứng minh rằng các nước láng giềng của Trung Quốc đang xâm phạm chủ quyền của họ. "Trung Quốc muốn biện minh với các nước láng giềng của họ rằng, họ có những lý do hợp pháp để thực hiện các hành động mạnh tay ở biển Đông", ông Nghê Lạc Hùng nhận xét. Những động thái ngày càng "diều hâu" của Bắc Kinh không chỉ có các nước trong khu vực, mà còn khiến cộng đồng quốc tế lo ngại.

Trong chuyến thăm Việt Nam, tham dự cuộc đối thoại chiến lược Việt Nam và Anh lần thứ hai, hôm 5.7 tại Hà Nội, khi đề cập đến những tranh chấp ở biển Đông hiện nay, Thứ trưởng Ngoại giao Anh Jeremy Browne cho biết, mặc dù Anh không phải là nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, không có quan tâm trực tiếp đến các tranh chấp, bất đồng của một số nước ở biển Đông, nhưng Anh không muốn những tranh chấp ở biển Đông làm cản trở, hạn chế giao thương hàng hải ở khu vực quan trọng này của thế giới, đồng thời nhấn mạnh nguyên tắc "tôn trọng luật pháp quốc tế, tôn trọng các nước láng giềng" trong xử lý bất đồng giữa các bên liên quan.

Cũng trong ngày 5/7, Philippines đã lên tiếng phản đối việc Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa, đồng thời Nội các nước này đã nhóm họp để đánh giá lại tất cả các lĩnh vực trong quan hệ với Trung Quốc, từ vấn đề tranh chấp lãnh thổ đến thương mại, du lịch. Trước đó, đáp lại cáo buộc của Bắc Kinh rằng Philippines cố tình kích động căng thẳng ở biển Đông, người phát ngôn của Phủ tổng thống Philippines Edwin Lacierda đã cảnh báo Trung Quốc bằng chính tiếng Hoa rằng, "Trung Quốc hãy ăn nói cẩn thận" trong những phát ngôn liên quan tới biển Đông. "Dù có giỏi tưởng tượng đến mấy người ta cũng không thể xem Philippines như một kẻ xâm lược Trung Quốc được", ông Edwin Lacierda phát biểu.

Còn cựu Tổng tham mưu trưởng lực lượng vũ trang Philippines Rodolfo Biazon kêu gọi chính phủ Philippines cần nhanh chóng cắm quốc kỳ lên bãi cạn Scarborough để thể hiện chủ quyền và khích lệ ngư dân nước này hoạt động đánh bắt cá ở khu vực này.

"Là thành viên của ASEAN, Việt Nam sẽ nỗ lực cùng các nước ở ASEAN đóng góp vào việc duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực", Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lương Thanh Nghị khẳng định tại cuộc họp báo chiều 5.7, khi được hỏi về đề xuất của Việt Nam trong việc thúc đẩy hòa bình, ổn định và giải quyết các tranh chấp ở biển Đông, trong khuôn khổ Hội nghị ASEAN (AMM) và Diễn đàn an ninh khu vực (ARF) sắp tới tại Campuchia. "Hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải ở biển Đông là quan tâm chung của ASEAN cũng như của các nước trong khu vực và trên thế giới.

Lập trường thống nhất của ASEAN là duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải ở biển Đông, chủ trương giải quyết hòa bình các tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 và tinh thần Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC)", ông Lương Thanh Nghị nhấn mạnh.

Người dân Trung Quốc đang bị kích động


Tại sao ở Trung Quốc liên quan đến vấn đề biển Đông lại xuất hiện dư luận hiếu chiến đến mức mù quáng, bất chấp lẽ phải và sự thật, bất chấp luật pháp quốc tế? Kết quả của một cuộc thăm dò của Thời báo Hoàn Cầu.

Tàu Trung Quốc tuần tra trên biển Đông - Ảnh: Mạng quân sự Trường Giang
Tàu Trung Quốc tuần tra trên biển Đông - Ảnh: Mạng quân sự Trường Giang

Kết quả của một cuộc thăm dò do Thời báo Hoàn Cầu thực hiện với gần 1.500 người ở Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu, Thành Đô, Tây An, Thẩm Dương... cho thấy rõ điều này. Gần 80% ủng hộ Trung Quốc “sử dụng vũ lực để đập tan các hành động gây hấn và xâm phạm” trên biển Đông. Chỉ vỏn vẹn 16,6% là nói không.

Thử khảo sát trên các trang Weibo... của cư dân mạng Trung Quốc cũng dễ dàng nhận thấy một dư luận tương tự. Rất nhiều ý kiến đòi chính quyền tuyên chiến trên biển Đông. “Không có chỗ cho đàm phán khi xét đến vấn đề lãnh thổ. Một cuộc chiến có thể đem lại 10 năm hòa bình” - một người viết. Người khác lại thẳng thừng: “Tôi ủng hộ việc bắn phá Philippines”. Nhiều người còn chỉ trích chính quyền Trung Quốc là hèn nhát, không dám bảo vệ đất nước. Đa số khẳng định căng thẳng trên biển Đông là “âm mưu thâm độc” do Mỹ dàn dựng để chống Trung Quốc...

Tâm lý nạn nhân

Tất nhiên, ở Trung Quốc vẫn còn có những người tử tế, biết tôn trọng lẽ phải và sự thật, biết yêu đất nước mình và tôn trọng quyền lợi chính đáng của những nước khác như hội thảo “Chủ quyền quốc gia và quy tắc quốc tế” do Viện Nghiên cứu kinh tế và báo mạng Tân Lãng tổ chức mới đây đã cho thấy. Thế nhưng những tiếng nói như vậy còn ít ỏi và lẻ loi, thậm chí đang có nguy cơ bị xem là “những kẻ phản quốc”. Nguyên văn tuyên bố của thiếu tướng quân đội Trương Châu Trung như sau: “Có hơn 1 triệu kẻ phản quốc ở Trung Quốc. Một số học giả là do Mỹ đào tạo, đọc sách Mỹ, chấp nhận quan niệm Mỹ và họ đang giúp Mỹ chống Trung Quốc”.

Tại sao dư luận Trung Quốc lại mù quáng, bất chấp đạo lý và lẽ phải đến như vậy? Câu trả lời dễ nhận ra là do người dân đã bị “tẩy não” và bị “đầu độc” hằng ngày hằng giờ những điều sai lệch.
Các phương tiện truyền thông Trung Quốc, điển hình nhất là tờ Thời báo Hoàn Cầu, thường xuyên cáo buộc Việt Nam và Philippines là “kích động”, “gây hấn” trên biển Đông và đòi chính quyền Bắc Kinh phải phát động “một cuộc chiến tranh quy mô nhỏ” chống lại các quốc gia Đông Nam Á. Giới tướng lĩnh quân đội Trung Quốc (PLA) liên tục đe dọa sẽ trừng trị các nước láng giềng.

Sách giáo khoa của học sinh tiểu học và trung học đều khẳng định cực nam lãnh thổ Trung Quốc là quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Các bản đồ chính thức của Trung Quốc cũng vẽ lãnh thổ Trung Quốc kéo dài tới tận Trường Sa.

Tất nhiên, sách giáo khoa Trung Quốc đã lờ tịt việc hải quân nước này đánh chiếm bất hợp pháp quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam vào năm 1974. Giới “học giả” Trung Quốc cứ ra rả một luận điệu dối trá khi nhấn mạnh trước thập niên 1970 không hề có cái gọi là “vấn đề biển Đông” do “biển Đông thuộc quyền quản lý của Trung Quốc”.

Trung Quốc hiện có một số tổ chức lớn chuyên nghiên cứu về biển Đông như Viện Hàng hải Trung Quốc, Viện Nghiên cứu Nam Hải, Học viện Khoa học xã hội, Viện Quan hệ quốc tế đương đại... Các “học giả” và “chuyên gia” của các tổ chức này, thông qua các hội nghị, hội thảo, diễn đàn, đều chung một luận điệu dối trá cho rằng khu vực được quy định bởi “đường chín đoạn” là thuộc chủ quyền lịch sử của Trung Quốc.

Phân tích dư luận của Trung Quốc về vấn đề biển Đông, nghiên cứu của Tổ chức Khủng hoảng quốc tế (ICG) cho rằng nguyên nhân là do chính quyền Bắc Kinh đã “tẩy não” người dân nước mình ngay từ khi họ còn là những đứa trẻ và “đầu độc” họ hằng ngày, nên người dân luôn tin rằng toàn bộ biển Đông là của Trung Quốc. Hằng ngày họ liên tục tiếp nhận những thông tin méo mó, dối trá qua các phương tiện thông tin. Do đó, niềm tin này càng trở nên mạnh mẽ đến mức họ coi các quốc gia khác là kẻ gây hấn, còn Trung Quốc là người vô tội.


Tâm lý của kẻ bị vây hãm

Vẫn theo ICG, trong vấn đề biển Đông, chính quyền Trung Quốc đã kích động một tâm lý dân tộc cực đoan bằng cách mô tả Trung Quốc là “nạn nhân” của các quốc gia xung quanh, là “kẻ yếu thế” trong các tranh chấp trên biển Đông. Chẳng hạn, báo chí Trung Quốc thường đưa tin theo kiểu: “Có hơn 1.000 giàn khoan dầu trên biển Đông và bốn sân bay ở Trường Sa, nhưng không có một cái nào là của Trung Quốc”.

Việc Mỹ tuyên bố trở lại châu Á càng là cơ hội để truyền thông Trung Quốc tô đậm “tâm lý nạn nhân” này, đẩy nó lên thành “tâm lý của kẻ bị vây hãm” bởi “những thế lực chống Trung Quốc” ở bên ngoài, và Trung Quốc đang phải tả xung hữu đột để chống đỡ và cố thoát ra tình trạng bị bủa vây này. Tất nhiên, như ICG vạch rõ, bằng cách này các cơ quan và chính quyền địa phương ở Trung Quốc mới có thể lợi dụng để thực hiện những ý đồ riêng. Họ thường công khai chỉ trích các quốc gia khác để gây sức ép buộc chính quyền Bắc Kinh hỗ trợ thêm nguồn lực. PLA cũng lợi dụng tranh chấp ở biển Đông để mở rộng ngân sách quốc phòng.

Chính do những thứ tâm lý này, các giọng điệu hiếu chiến luôn chiếm ưu thế trước quan điểm ôn hòa trong dư luận Trung Quốc. Cũng chính vì tự thổi ngọn lửa dân tộc cực đoan, chính quyền Bắc Kinh lại luôn bị áp lực phải thể hiện bộ mặt cứng rắn để không bị xem là yếu thế mỗi khi đề cập đến vấn đề biển Đông. Một số học giả nhận định chính Bắc Kinh đã “tự tạo ra một con quái vật mà nó sẽ khó lòng kiểm soát”.