Trang

Hiển thị các bài đăng có nhãn Barack Obama. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Barack Obama. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 11 tháng 5, 2012

Liên minh gọng kìm của Mỹ

Mỹ đang "trở lại Á châu", và không chỉ bằng lời nói. Một thế kiềm chế chiến lược giống như những gì mà Hoa Kỳ đã làm với Liên Xô trước kia, với Nhật Bản, Australia, Nam Hàn hay Philippines đang tạo dựng ma trận bao quanh Trung Quốc.

Từ tốt đến vĩ đại?


Ở khu vực Đông Á, quan hệ giữa Mỹ và đồng minh truyền thống Nhật Bản ấm lên với sự gia tăng của các cuộc tập trận và hội đàm song phương sau một thời gian dài đình trệ, từ khi người dân Nhật phản đối Mỹ đóng quân ở Okinawa năm 2005.
Các cuộc tập trận giữa hai nước diễn ra ngày càng thường xuyên hơn. Điển hình là cuộc tập trận chung kỉ niệm 50 năm quan hệ đồng minh Mỹ - Nhật với quy mô lớn nhất từ trước đến nay tại biển Nhật Bản vào tháng 12/2011 với 1 tàu sân bay, 40 tàu chiến, 400 máy bay và 44000 binh sĩ.

Hơn một tháng sau, cuối tháng 1/2012, Mỹ - Nhật lại tiếp tục thực hiện 2 cuộc tập trận khác để khẳng định lại những cam kết trong cuộc Hội đàm cấp cao giữa các lãnh đạo quân đội hai nước hồi tháng 12/2011 về tăng cường khả năng tương tác giữa quân đội Nhật - Mỹ và phản ứng với các mối đe dọa từ bên ngoài. Ngoài ra, Mỹ - Nhật còn có cuộc tập trận bắn đạn thật vào tháng 2/2012.

Các cuộc tập trận diễn ra liên tục này không chỉ thể hiện sự sẵn sàng của liên minh Mỹ - Nhật đối với các sự kiện diễn ra trong khu vực, mà còn khẳng định tầm quan trọng chiến lược của khu vực châu Á-Thái Bình Dương đối với Mỹ như trong bản Chỉ đạo chiến lược quốc phòng mà Tổng thống Barack Obama đã công bố vào đầu tháng 1/2012.

Triển vọng phát triển hơn nữa liên minh chiến lược Mỹ - Nhật tiếp tục được củng cố khi cuối tháng 4/2012, hai nước đã thống nhất giải quyết được vấn đề gai góc nhất tồn tại vài năm qua là chuyển một nửa lực lượng lính Mỹ ở Okinawa đi các căn cứ khác của Mỹ ở Thái Bình Dương.

Ngay sau đó một tuần, vào 30/4/2012,  Tổng Thống Mỹ và Thủ tướng Nhật đã có cuộc Hội đàm song phương tại Nhà trắng về các vấn đề nóng nhất hiện nay. Hai nước đã đưa ra tuyên bố chung đầu tiên kể từ năm 2006 và gọi liên minh giữa hai nước là "hòn đá tảng của hòa bình, an ninh và ổn định ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương".

Hơn nữa 2 nước còn cam kết mở rộng hợp tác trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt nhất là hợp tác về xây dựng năng lực an ninh biển của Philippines và nỗ lực xúc tiến đàm phán Hiệp ước xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Quân đội Mỹ và Philippines tập trận trên Biển Đông.
Quân đội Mỹ và Philippines tập trận trên Biển Đông.

Nhìn về châu Úc, quan hệ đồng minh Hoa Kỳ - Australia được định hình từ thời Chiến tranh Lạnh với việc Washington thiết lập khối hiệp ước quân sự Australia - New Zealand - Hoa Kỳ (ANZUS) vào năm 1951. Kể từ đó đến nay, Australia cùng với Nhật Bản vẫn luôn là đồng minh truyền thống và đáng tin cậy bậc nhất của Hoa Kỳ tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.

Chuyến thăm của Tổng thống Barrack Obama mới đây tới Canberra được đánh giá đi vào lịch sử. Cuối năm 2011, Washington tuyên bố sẽ đưa 2500 quân đến Darwin. Sự kiện này đánh dấu hai mục đích lớn. Thứ nhất là tăng cường mối quan hệ song phương, mối quan hệ đồng minh chiến lược giữa Washington và Caberra trên tất cả các mặt, đặc biệt là về mặt chiến lược. Từ trước đến nay, ngoài tiến hành các vụ tập trận chung, đóng góp nhân lực vào các chiến dịch lớn của Hoa Kỳ ở nước ngoài, các cuộc viếng thăm cấp cao giữa các quan chức quốc phòng hay chia sẽ các cơ sở tình báo, Australia chưa bao giờ cho phép Hoa Kỳ đóng quân trên lãnh thổ của mình.

Thứ hai sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ ở đây sẽ cho phép Washington sử dụng các cơ sở kỹ thuật cũng như địa hình đa dạng ở phía bắc Australia để tiến hành các cuộc tập trận, có thể bao gồm một nước thứ ba khác. Australia đang sở hữu một sức mạnh quân sự đáng kể, là một trong những quốc gia phát triển hàng đầu và có một vị thế địa chính trị đặc trưng.

Là một đảo quốc, đúng hơn là một lục địa lớn bao quanh bởi biển, cộng thêm thực lực hùng hậu của Hạm đội 7 Hải quân Hoa Kỳ, Canberra và Washington đã kiểm soát gần như toàn bộ khu vực Nam Thái Bình Dương, qua đó khống chế mặt nam của đại dương này ngay từ đầu, hạn chế được một phần tham vọng của Trung Quốc. Hơn nữa, với căn cứ mới được đặt tại Darwin, quá trình tiếp cận của quân đội Hoa Kỳ với khu vực Đông Nam Á sẽ dễ dàng và tiện lợi hơn rất nhiều.

Hoa Kỳ cũng có khả năng nhanh chóng can thiệp vào khu vực Ấn Độ Dương, nằm trên tuyến hàng hải sống còn vận chuyển năng lượng của vùng. Đặc điểm cuối cùng của Darwin chính là nó nắm ngoài tấm với của hầu hết các loại vũ khí thông thường của quân đội Trung Quốc.

Ở Đông Nam Á, trước những đụng độ với Trung Quốc tại Bãi cạn Scarborough thời gian gần đây, Philippines đã phải nhượng bộ. Nhưng ngay sau đó, Philippines tuyên bố sẽ tăng tập trận với Mỹ, cũng như yêu cầu Mỹ trợ giúp thêm một số vũ khí hạng nặng để hiện đại hóa hải quân. Để thể hiện sự ủng hộ của mình, Mỹ không chỉ khẳng định lại cam kết Hiệp ước phòng thủ chung giữa hai nước trong các cuộc hội đàm và tuyên bố tăng cường tập trận với Philippines.

Hơn nữa, Mỹ còn tuyên bố sẽ tăng gấp ba viện trợ quân sự cho Philippines, chuyển giao thêm một tàu chiến lớp Hamilton trong 2012 và sẽ tích cực tìm kiếm thêm các nguồn viện trợ khác cho Philippines. đáng chú ý nhất là tập trận chung Balikatan giả định bảo vệ một dàn khoan dầu khí vào tháng 4/2012 đã được lên kế hoạch kĩ lưỡng từ cuộc hội đàm cấp cao giữa các quan chức quốc phòng 2 nước từ tháng 1/2012. Kế hoạch tập trận được đưa ra sau khi Trung Quốc tăng chi tiêu cho quốc phòng thêm 11,2%.

Các cuộc tập trận và hội đàm giữa hai bên diễn ra trong bối cảnh Trung Quốc gia tăng khiêu khích và gây hấn với Philippines. Trong đó Hành động đa phương hóa các cuộc tập trận thường niên giữa 2 nước không chỉ thể hiện Mỹ và đồng minh sẽ đứng về phía Philippines, mà còn là cơ hội để Mỹ kêu gọi các đồng minh khác giúp đỡ và viện trợ quân sự cho Philippines.

Hiện nay, Philippines là đồng minh duy nhất của Mỹ ở biển Đông, là một trong bốn mắt xích quan trọng nhất để kiềm chế Trung Quốc, nhưng cũng là mắt xích yếu nhất khi tiềm lực quân sự của nước này là yếu nhất Đông Nam Á. Cuộc Hội đàm Liên Bộ Ngoại giao - Quốc phòng hai nước Philippines - Mỹ vào 30/4/2012 vừa qua đã khẳng định liên minh hai nước là "mỏ neo của hòa bình, ổn định và thịnh vượng" tại châu Á - Thái Bình Dương và Mỹ cam kết sẽ củng cố năng lực quốc phòng cho Philippines ở mức đáng tin cậy tối thiểu thông qua các chương trình hỗ trợ an ninh.

Không như với Nhật Bản, Philippines hay Australia, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Ấn Độ mang tính chất đối tác chiến lược. Hai quốc gia đang thực sự cần tới nhau trên rất nhiều phương diện. Không như giai đoạn trước năm 1991, khi mối quan hệ giữa hai nước rơi vào tình trạng đóng băng do chính sách tiếp cận quan hệ quốc tế của hai nước khá khác biêt. Hoa Kỳ tập trung kiềm chế Liên Xô. Trong khi Ấn Độ với tư tưởng không liên kết của mình, lại có xu hướng ủng hộ Moscow trong các vấn đề quốc tế. Hiện nay, với xu thế toàn cầu hóa, hội nhập, sự chuyển dịch địa chính trị mạnh mẽ, cuộc chiến chống khủng bố và Trung Quốc chính là những lý do chính khiên quan hệ giữa Washington và New Delhi phát triển rất nhanh chóng.

Chuyến thăm của ngoại trưởng Hilary Clinton mới đây đến New Delhi sau chuyến thăm của bà tới Bắc Kinh đã cho thầy được tầm quan trọng của Ấn Độ đối với Washington, đặc biệt trong các vấn đề an ninh. Việc hợp tác với Hoa Kỳ không chỉ giúp Ấn Độ về phát triên kinh tế, mà còn về phát triển quốc phòng, qua đó làm đối trọng với Trung Quốc tại Châu Á. Trải qua nhiều thập nhiên, thì quan hệ giữa Washington và New Delhi đã chuyển từ đối đầu như trong chiến tranh lạnh sang đối tác như hiện nay.

Phải nói thêm rằng quan hệ giữa Ấn Độ và Trung Quốc là rất phức tạp, hai nước có nhiều tranh chấp về lãnh thổ cũng như về quyền lực, hai nước lại là đối tác thương mại lớn của nhau và cạnh tranh nhau trong nhiều lĩnh vực mà đặc biệt là năng lượng. Trung Quốc đang thực hiện chiến lược chuỗi ngọc trai nhắm kiềm chế Ấn Độ, trong khi đó Hoa Kỳ lại khuyến khích Ấn Độ hướng đông, cùng các nước đồng minh của mình.

Không chỉ dừng lại ở các cuộc tập trận song phương, Nhật Bản còn lần đầu tiên tập trận chung với các đồng minh khác của Mỹ như tập trận Mỹ - Nhật - Úc (2/2012), tập trận Mỹ - Ấn - Nhật. Các động thái của Liên minh Mỹ - Nhật càng ngày càng thể hiện sự liên kết toàn diện không chỉ về chính trị mà còn về kinh tế giữa các mắt xích của một mạng lưới cho cả vùng. Câu hỏi đặt ra hiện nay là sự hình thành thế trận như vậy sẽ để làm gì? Kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc hay đóng vai trò người "gác cửa", "mỏ neo của hòa bình, ổn định và thịnh vượng" tại châu Á - Thái Bình Dương"? "Từ tốt có đến được vĩ đại?" sẽ nằm ở mục đích lâu dài mà liên minh gọng kièm này hướng đến.

Thứ Sáu, 4 tháng 5, 2012

Việt - Mỹ: Đi tìm điểm tựa của tương lai


Trong bài toán biển Đông, Việt-Mỹ  chia sẽ với nhau ba góc nhìn.

Lựa chọn liên minh


Quan hệ Việt – Mỹ đang trong giai đoạn mà yếu tố lợi ích đang đóng vai trò tiên quyết. Mỹ là một đối tác quan trọng với Việt Nam bởi những tích cực mà hợp tác kinh tế, thương mại, giáo dục, chuyển giao công nghệ  do Mỹ đem lại. Ngược lại, Việt Nam càng ngày càng trở nên quan trọng hơn với Mỹ, xét trên bàn cờ  địa chính trị chung của khu vực châu Á. Riêng với chính quyền Obama, mở rộng hợp tác với các quốc gia Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam, còn thể  hiện thuyết sách ngoại giao mới tập trung vào ba ưu tiên chuyển đổi, trong đó ưu tiên chuyển đổi địa dư, từ châu Âu sang châu Á với sự  trở lại của nước Mỹ tại khu vực Thái Bình Dương, nằm ở vị trí đầu tiên.
Trong bài toán biển Đông, Việt-Mỹ  chia sẻ với nhau ba góc nhìn. Thứ nhất, các xung đột trong khu vực nên giải quyết thông qua biện pháp ngoại giao và hòa bình, tránh đụng chạm xung đột vũ  trang hay lạm dụng sự bất đối xứng trong tương quan quân sự. Điều này đã được các quan chức cấp cao của hai bên khẳng định nhiều lần trong thời gian gần đây tại nhiều diễn đàn đa phương. Điểm thứ hai thể hiện qua việc hai nước đang cùng tìm một vị trí pháp lý chung trong việc quản lý hàng hải. Bản đồ đường lưỡi bò 9 điểm đứt khúc từ phía Bắc Kinh (nếu  được chấp nhận) đồng nghĩa với việc xây dựng một hàng rào giới hạn quyền tự do lưu thông hàng hải của Mỹ. Với Việt Nam là dấu chấm hỏi cho việc bảo vệ chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Xa hơn, là lựa chọn chiến lược, bởi vì "luật chơi“ trong một trật tự  với một siêu cường không phải muốn chỉnh sửa thế  nào cũng được. Nhất là qua cách thức đề cao nhiều sức mạnh về "cơ bắp“.

Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cùng Tổng thống Mỹ Barack Obama và các nhà lãnh đạo TPP tại APEC 19
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cùng Tổng thống Mỹ Barack Obama và các nhà lãnh đạo TPP tại APEC 19 

Cùng lợi ích thì thuận chiều: liệu thời gian đã chính muồi để bàn về sự  hình thành cùa mối quan hệ -thậm chí liên minh chiến lược Việt-Mỹ hay không? Trả lời phỏng vấn báo chí, thứ trưởng bộ Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh đã nhiều lần khẳng định chính sách “ba không” của Việt Nam: “không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào  đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia”. Trả  lời nhậm chức vào tuần trước tân đại sức Mỹ  tại Việt Nam David Bruce Shear cũng để mở khả năng là nhà cung cấp thiết bị quân sự cho Việt Nam, đặc biệt là những vũ khí mang tính sát thương. Những động thái này cho thấy một “định chế cứng” ở dạng liên minh quân sự, theo đó, các nước ràng buộc với nhau bằng một cam kết bảo vệ an ninh lẫn nhau (có thể chống lại một đe doạ đến từ phe thứ ba) hay cung cấp vũ khí để hổ trợ chưa đạt được một đồng thuận đủ mạnh từ hai phía. Một “định chế mềm”, tuy vậy, vẫn có thể khả thi, thể hiện qua ba kênh chính.

Ba điểm tựa của thì  hiện tại 

Đầu tiên là qua kênh kinh tế. Một Việt Nam phát triển mạnh mẽ hơn có nằm trong lợi ích của Mỹ hay không? Các nhà chiến lược theo trường phái duy thực sẽ trả lời có, vì dưới góc nhìn của họ không có phương thức nào tốt hơn để kiềm chế sự trỗi dậy của một nước đang lên bằng cách thúc đẩy sức mạnh của các nước láng giềng khác trong vùng. Cân bằng bên ngòai (offshore balancing) mang ý nghĩa tạo ra một khung bó buộc hành động của đối thủ dựa trên trọng lực của các nước xung quanh, mà không cần tham gia đối đầu trực tiếp. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, hưởng lợi trực tiếp của lựa chọn này trên hết là kinh tế. Kế hoạch Marshall tại châu Âu hay hổ trợ tái thiết Nhật Bản những năm sau thế chiến II cùng theo đuổi kịch bản tưong tự. Thặng dư trong thương mại, chuyển giao nhanh công nghệ, tăng tốc quá trình phát triển, để mạnh và để trở thành một lực lượng đóng vai trò chiến lược. Việc Vn liên tục nhập siêu với Mỹ trong những năm gần đây thể hiện xu thế đó. “Hiệp định Thương mại tự do xuyên Thái Bình Dương (Trans – Pacific Partnership Trade Agreement – TPP)” hiện đàm phán tới vòng thứ sáu, cũng có thể là một lực đẩy mới. Sáng kiến thương mại tự do được Mỹ khởi xướng gần đây tiếp tục sẽ gắn Việt Nam vào dòng thác thương mại đa phương toàn cầu, thiết lập một liên minh ngoại thương mà tầm hoạt động của nó là xuyên hai châu lục. Xét về mặt địa chính trị, ý nghĩa thứ hai có thể vượt qua những con số thông kế, không chỉ là một kế hoạch tự do thương mại, mà còn là “một dự án chính trị” nhằm thiết chế hoá một môi trường khu vực ổn định.

Kênh thứ hai là ngọai giao. Lĩnh vực dường như nhạy cảm hơn, vì gắn liền đến nhiều yếu tố khách quan khác. Năm 2010, trước động thái có vẻ "vượt rào“ từ phía Bắc Kinh, các nước Asean mở  cờ trong bụng tại hội nghị An ninh khu vực vùng ARF, khi Ngoại Trưởng Hillary Clinton khẳng định “Hoa Kỳ có lợi ích quốc gia của mình đối với vấn đề tự do hải hành, tự do tiếp cận các các vùng biển chung của Châu Á cũng như tôn trọng luật lệ quốc tế về biển Ðông”. Năm 2011, không khí bớt căng thẳng hơn, như vẫn theo chiều hướng cũ, khi Mỹ và Philippines nêu vấn đề cần đưa những căng thẳng hiện tại xung quanh vấn đề tranh chấp ở Biển Đông vào bàn đàm luận tại ARF. Mức độ „liên minh“ giữa Mỹ và Asean có thể tiếp tục gắn kết hơn trên bình diện hợp tác đa phương, nếu vị trí của Washington được tái khẳng định trong lộ trình hướng tới đồng chung Đông Á” (East Asian Community – EAC). Cho đến nay nước Mỹ (cùng với Nga) còn bị giới hạn với tư cách là quan sát viên. Đây là một diễn đàn quan trọng, mà thông qua đó - nếu được chấp thuận bằng lá phiếu của Asean- sẽ „định chế“ vai trò và trách nhiệm của Mỹ vào các hồ sơ an ninh chung của toàn vùng.

Nước yếu và nước mạnh bất tương quan về lực, vì thế không tương đồng với nhau về cách thức giải quyết giữa sức mạnh và  thể chế. Nước mạnh dùng luật để xây dựng trật tự có lợi, ngược lại phần nào chấp nhận hạn chế hành vi của mình trong các quy phạm của pháp lý - một mặt để đề phòng khi sức mạnh mình bị suy giảm, một mặt hạn chế các phí tổn “hành động” nếu trong mọi trường hợp đều phải tiến hành giải pháp quân sự. Nước yếu chấp nhận luật pháp, ngược lại, theo đuổi bốn mục đích. Thứ nhất là thể chế tạo dựng diễn đàn để bày tỏ quan điểm. Thứ hai gắn kết tính chính đáng cho các hành xử của mình nếu nước lớn đơn phương hủy bỏ luật chơi. Thứ ba, tạo cơ sở tiên đoán (hoặc phần nào) hạn chế khung hành động của nước mạnh hơn. Cuối cùng, định chế không phải là phương thức thần kỳ để giải quyết tất cả vấn đề, nhưng với nước nhỏ đó là một con đường tối thiểu để đảm bảo rằng các vấn đề đang còn mâu thuẫn được giải quyết pháp chế và chuẩn tắc, chứ không phải thế yếu thông qua tương quan máy bay, tàu chiến. Phân tích thế cờ tại Biển Đông chỉ ra điểm mấu chốt không chỉ đơn thuần là mối quan hệ giữa nước mạnh và nước yếu, nước lớn và nước nhỏ, mà được định hình bởi nhiều bên, phân tầng theo nhiều góc độ. Mỹ và Vn gặp nhau ở điểm là hai bên đều đang trong thế cần xài luật để tìm hướng giải quyết. Hình thành một liên minh "pháp lý“ là điểm tiệm cận gần nhất của góc nhìn này, trong đó hai việc cần nâng làm ưu tiên: (i) thống nhất một số điểm còn tranh cãi trong Công ước LHQ về Luật biển năm 1982 (UNCLOS) về khu vực đặc quyền kinh tế và (ii) kêu gọi Mỹ đứng sau hậu thuẫn tiến trình đi đến một hiệp ước mang tính ràng buộc pháp lý hơn tại biển Đông giữa các đối tác liên quan. 

“Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nhấc bổng quả đất lên”, câu nói đã trở thành bất hữu của Archimedes. Nay với ba điểm tựa tiềm năng trong quan hệ Việt-Mỹ chúng ta sẽ "nhấc bổng“ được những gì? Bài toán sắp tới chắc chắn sẽ nằm ở việc xây dựng những điểm tựa này tới đâu thông qua quá trình xúc tiến các định chế hoá. Một thách thức vừa của cả chính phủ, vừa của nhân dân hai quốc gia để đưa quan hệ Việt – Mỹ lên một tầm cao mới.