Trang

Hiển thị các bài đăng có nhãn đảo Đá Lát. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn đảo Đá Lát. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 30 tháng 5, 2012

Trường Sa – nơi máu thịt Tổ Quốc


Không ít người đang tận hưởng những giây phút yên bình với gia đình và công việc mà không hề biết rằng vẫn có nhiều người lính vẫn chiến đấu, hy sinh trong khi làm nhiệm vụ bảo vệ quần đảo Trường Sa. 
Những ngày vượt sóng gió ra với Trường Sa lớn, Sơn Ca, Nam Yết, với nhà giàn DK1, ngồi bên nấm mộ các anh, chúng tôi mới hiểu cái giá phải trả cho giây phút hạnh phúc của mình và bao người…  

Những cán bộ, chiến sĩ Hải quân vẫn kiên cường, anh dũng và quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ được giao
Những cán bộ, chiến sĩ Hải quân vẫn kiên cường, anh dũng và quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ được giao

Tháng tư ở Trường Sa

Trường Sa những ngày tháng Tư lịch sử nắng chói chang, gió thổi nhẹ và biển lặng. Một cán bộ Quân chủng Hải quân bảo với chúng tôi: “Mùa này tranh thủ biển lặng nên Quân chủng và Bộ Quốc phòng có thể triển khai được nhiều đoàn công tác ra thăm, động viên cán bộ, chiến sĩ đang công tác ngoài đảo. Càng về cuối năm, sóng càng dữ, rất to nên khó đi hơn rất nhiều”.

Địa điểm đầu tiên mà đoàn chúng tôi đặt chân tới quần đảo Trường Sa là đảo chìm Đá Lát. Tiếp chúng tôi, các cán bộ, chiến sĩ trên đảo rơm rớm nước mắt vì vui mừng khiến các thành viên đi trong đoàn cũng… rơm rớm theo. Các anh cười bảo: “Lâu rồi mới lại có đoàn đất liền ra thăm anh em, không vui sao được, vui đến phát khóc ấy chứ”. Những bài hát, những tiếng cười vang lên trong trẻo và giòn tan trong không gian bốn bề mênh mông nước biển và tiếng sóng rì rào.

Ở đảo chìm Đá Lát, ai cũng có thể cảm nhận được một tình cảm gắn bó như ruột thịt, những cái bắt tay, những cái ôm thật chặt của những con người, nếu ở trong đất liền có lẽ chỉ là những người xa lạ. Ở nơi đảo xa, nơi đầu sóng, ngọn gió thiêng liêng của Tổ quốc, những tình cảm vốn đời thường nay trở thành phi thường, tiếp thêm động lực và là nguồn cổ vũ tinh thần rất lớn cho các cán bộ chiến sĩ đang ngày đêm đóng quân tại đây.

Trong suốt chuyến hành trình hơn 10 ngày đi thăm các điểm đảo và nhà giàn DK1 của đoàn công tác, chúng tôi đặt chân tới các đảo chìm như Đá Lát, Đá Tây, Thuyền Chài và đặc biệt là nhà giàn DK1 mới thấy cuộc sống vất vả và gian khó của cán bộ, chiến sĩ Quân chủng Hải quân đang làm nhiệm vụ tại đây.

Họ, những con người còn rất trẻ, có những chiến sĩ chỉ mới mười chín, đôi mươi. Đình Chí (19 tuổi, quê Cam Lâm, Khánh Hòa) đang làm nhiệm vụ tại đảo Đá Tây tâm sự với chúng tôi: “Em mới ra đây hồi tháng 1 trong đợt giao quân. Ban đầu còn nhớ nhà, nhớ bố mẹ nhưng ra đây rồi, nhận thức được trách nhiệm và nghĩa vụ của một người lính nơi tuyến đầu và trên hết, nhiều tấm gương anh em trên đảo thực sự khiến chúng em quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Giờ đây, em yên tâm công tác và cũng hứa với đất liền rằng, mọi người có thể yên tâm ở chúng em. Còn người, còn đảo, chúng em không bao giờ có thể để ngoại xâm có thể xâm phạm chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc”. Hỏi chuyện các cán bộ chỉ huy trên đảo Đá Tây mới hay, Chí là một chiến sĩ trẻ thuộc khẩu đội 12,7, Chí bắn rất chuẩn và luôn hoàn thành nhiệm vụ được giao. 

Câu chuyện với chúng tôi với các chiến sĩ trên đảo Đá Tây kéo dài đến sát giờ lên tàu để di chuyển đến thăm một điểm đảo khác. Chúng tôi, những phóng viên làm báo, ghi chép những câu chuyện mắt thấy tai nghe không khỏi trầm trồ, thán phục Thượng úy Nguyễn Ngọc Chinh (Cán bộ xuồng máy chiến đấu CQ, đảo Đá Tây) bắt đầu là chiến sĩ Hải quân từ năm 1991. Và cũng từ đấy anh bắt đầu những chuyến công tác dài ngày trên biển và đóng quân tại các biển đảo.

Anh tâm sự: “Ngần ấy năm gắn bó với biển đảo quê hương, gần như các điểm đảo thuộc quần đảo Trường Sa của nước ta tôi đã từng có thời gian công tác, phục vụ. Từ Tiên Lữ những năm 1997 đến Thuyền Chài rồi lại Tiên Lữ, An Bang…nhiều kỉ niệm khó quên. Đã có lúc chứng kiến anh em đồng đội ngã xuống, có những lúc nguy nan nhưng chưa bao giờ thôi nghĩ mình còn sức còn phải chiến đấu, phải xứng đáng với niềm tin của “đất liền”. Và cứ như thế, tôi cũng như một con hải âu biển, đến bây giờ đã hơn hai mươi năm”.

Đến với đảo An Bang, sóng thường ngày cũng lớn hơn so với các đảo nổi khác trong quần đảo. Liên tiếp những con sóng to ào lên trùm kín cả tiểu đội chiến sĩ đang làm nhiệm vụ giữ chắc dây buộc để chiếc xuồng của đoàn công tác thôi khỏi lắc lư. Vẫn những nụ cười ấy, ánh mắt ấy của những chiến sĩ trẻ tuổi khoác trên mình bộ quân phục Hải quân nổi bật giữa đại dương bao la và trở thành tâm điểm chú ý của những con người lần đầu tiên đến với họ. Nhưng cái bắt tay thân tình của đồng chí, đồng bào như thắp lên những tin yêu nơi họ. Và họ hát, họ tặng chúng tôi niềm tin, tặng chúng tôi quyết tâm của người lính. Những tiếng hát của các chị em văn công trong đoàn đi cùng đem đến tiếng cười, những nụ cười giòn tan y như mới ngày hôm qua trên đảo Đá Lát.

Tại cụm đảo Thuyền Chài, hình ảnh vị anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt đánh đuổi quân xâm lăng lẫy lừng trong lịch sử và nổi tiếng hơn cả là bài thơ: “Nam quốc sơn hà” được khắc ghi quan trọng như lời khẳng định đanh thép, không chối cãi về mặt lịch sử và cả pháp lý chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa từ trước đến nay, bất di bất dịch. Và chắc chắn, tinh thần yêu nước và những giá trị của lịch sử sẽ tiếp tục được các chiến sĩ Hải quân nước ta kế tục và tiếp bước.

Có những người hóa thành bất tử


Những năm hòa bình của thế kỷ 21 này, vẫn có nhiều người lính lặng lẽ nằm xuống trong khi làm nhiệm vụ bảo vệ quần đảo Trường Sa. Đó là sự thật. Mười ngày ra với Trường Sa lớn, Sơn Ca, Nam Yết với nhà giàn DK1, ngồi bên nấm mộ các anh – những người lính đã hiến dâng cuộc sống của mình cho Tổ quốc, tôi mới hiểu cái giá phải trả cho giây phút hạnh phúc của mình và bao người.

Hầu hết những người lính đã ngã xuống đều có tuổi đời, tuổi quân rất trẻ, thậm chí có người còn chưa có người yêu. Trên mỗi hòn đảo ở huyện đảo Trường Sa lớn, Nam Yết, Sơn Ca… đều có các nghĩa trang liệt sĩ nhỏ để các anh ngày ngày ở bên cùng đồng đội, là nơi mỗi khi có đoàn công tác từ đất liền ra tới thăm. Gọi là nhỏ vì khoảng đất đó chỉ quây quần 2-3 mộ liệt sĩ . Có rất nhiều lý do khiến các anh nằm xuống, nhưng tựu trung lại đều do nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền Tổ quốc, ở nơi xa tít tắp đất liền.  

Tôi may mắn được ra với Trường Sa, bước chân ra khoảng đất kề sát biển, đầu đường băng Trường Sa Lớn, thắp hương cho những người mới nằm xuống, khi tuổi đời còn quá trẻ. Đó là  Lê Văn Tuấn, sinh ngày 2/2/1988, hy sinh 26/10/2010, quê quán: Quảng Đức, Quảng Xương, Thanh Hóa; Hoàng Văn Nghĩa, sinh ngày 3/7/1986, hy sinh 29/3/2010, quê quán: Xóm 5, Nam Toàn, Nam Trực, Nam Định…Liệt sĩ Nguyễn Văn Thi, sinh ngày 15-4-1975, hy sinh ngày 14-4-2001, quê quán: Hoàng Minh, Hoàng Hóa, Thanh Hóa. Chiến sĩ báo vụ Nguyễn Văn Thi hy sinh trong khi bơi ra dòng xoáy, cứu chiếc xuồng của đảo bị đứt dây. Do điều kiện thời tiết khắc nghiệt, Thi đã anh dũng hy sinh khi tuổi đời sắp tròn 26. 

Quãng đường đi lại dài ngày, vất vả, những món quà viếng mộ cho các anh chẳng có gì nhiều mà cũng bị ảnh hưởng. Tôi nhớ hình ảnh chị Hương ở công ty cao su xuýt xoa khi những bông hoa cúc gói ghém cẩn thận thế mà cũng dần héo úa.. Trong ánh hoàng hôn chới với ở Trường Sa Lớn, tôi được thắp hương tưởng nhớ các anh, vào thời phút này, tôi đã may mắn hơn rất nhiều những người con đất Việt khác, luôn khao khát mà chưa được đặt chân đến Trường Sa lần nào, chưa bao giờ được cúi đầu trước ngôi mộ những người lính vì mỗi tấc đất, mỗi sải biển của Tổ quốc mình đã vĩnh viễn nằm lại với biển Ngồi bên các anh trong ráng chiều, tôi thêm hiểu sự hy sinh cho Tổ quốc thiêng liêng đến chừng nào. 

Trên con tàu HQ 996, qua vùng biển nhà giàn Phúc Tần DK1, chúng tôi làm lễ tưởng niệm các chiến sĩ đã anh dũng hy sinh trong cơn bão kinh hoàng số 10 đêm ngày 4 tháng 12 năm 1990. Khi đó, nhà giàn Phúc Tần DK1 bị sóng dâng cao 14m-15m đánh nghiêng, phá vỡ các sàn ghi tầng dưới và đến hơn 2 giờ sáng ngày 5 tháng 12, toàn bộ khối nhà bị đổ xuống biển. Các tàu cứu nạn của Quân chủng Hải quân đã kịp thời đến tìm kiếm, sau 5 giờ đã cứu được 5 cán bộ, chiến sỹ. Nhưng 3 đồng chí cán bộ nhà giàn: Trung úy Nguyễn Hữu Quảng, trạm phó người Hà Nội, trung úy chuyên nghiệp Trần Văn Là quân y sỹ và hạ sỹ Hồ Văn Hiền, nhân viên cơ điện đã mãi mãi ở lại với biển cả. Các anh đã anh dũng hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ thềm lục địa phía Đông của Tổ quốc.

Tháng 12 năm 1998 lại một cơn bão số 8 rất mạnh tràn qua vùng biển DK1. Nằm trong khu vực trọng điểm của bão, trong tình thế hiểm nghèo, dưới sự chỉ huy của Trạm trưởng, đại úy Vũ Quang Chương và 8 cán bộ nhà giàn DK1/6 Phúc Nguyên đã kiên trì bám trụ, liên tục giữ vững thông tin liên lạc và báo cáo chính xác mọi diễn biến về Sở chỉ huy, bình tĩnh, dũng cảm chống chọi với bão. Giữa biển khơi mênh mông, đêm tối mịt mù, với sóng gió, vừa mệt, vừa đói rét, 9 cán bộ, nhân viên nhà giàn DK1/6 Phúc Nguyên vẫn kiên trì bám trụ, kiên quyết bảo vệ nhà giàn đến cùng. Trong một thời gian dài, liên tiếp gồng mình chống chọi với những trận cuồng phong.

Những cơn sóng lớn, đỉnh sóng lên tới 14-15m đánh mạnh trùm kín qua cả sàn công tác của nhà giàn, cùng với sức gió giật mạnh làm cho cả nhà giàn bị rung chấn dữ dội và nghiêng lắc mạnh. Vào 3h sáng ngày 14 tháng 12 năm 1998 nhà giàn Phúc Nguyên DK1/6 bị ảnh hưởng mạnh và bị đổ, hất cả 9 chiến sỹ hải quân trong đó có Đại úy Vũ Quang Chương, trạm trưởng xuống biển. Ngay sau đó lực lượng cấp cứu của bộ đội Hải quân đã khẩn trương tìm kiếm, cứu nạn. Đến 3 ngày sau tàu HQ 606 đã phát hiện cấp cứu được 6 chiến sỹ. Đồng chí đại úy Vũ Quang Chương, trạm trưởng, chuẩn úy chuyên nghiệp ra đa Lê Đức Hồng và chuẩn úy chuyên nghiệp cơ điện Nguyễn Văn An mãi mãi ở lại với biển khơi, thi thể các anh đã hóa thân vào với sóng, gió đại dương. 

Nhiều thành viên trong đoàn cúi đầu rơi lệ khi lời tưởng niệm như những câu chuyện khắc cốt ghi tâm, như những lời tâm sự cùng đồng đội vang lên giữa biển cả. Tất cả im lặng, trang nghiêm, thành kính. Sóng vỗ to hơn. Trời xanh thẳm hơn. Biển mênh mông hơn. Khói hương cũng như nghi ngút hơn… 

Vĩ thanh


Trên khắp các đảo nổi thuộc chủ quyền của Tổ quốc tại quần đảo Trường Sa, bất kỳ nơi nào có thể phát triển, những cây bàng vuông và phong ba vẫn vươn mình ra đón nắng mai để vươn lên mạnh mẽ khẳng định sự lớn mạnh của loài cây đặc trưng nơi đảo xa. Ở một điều kiện khắc nghiệt đến như vậy, chúng vẫn xanh tốt, ra hoa, và kết thành những quả bàng vuông vức khiến ai ra đến đảo cũng phải trầm trồ.

 Trường Sa bây giờ đã đổi khác rất nhiều, đầy đủ và tiện nghi hơn. Nhưng có một thứ không bao giờ thay đổi, đó là  sự bất trắc, hiểm nguy ập lên vai người lính bất cứ lúc nào có khi phải trả bằng mạng sống của người lính khi chống chọi với kẻ thù lăm le cướp đảo, gồng mình chịu đựng thiếu thốn, đau ốm - bệnh tật hiểm nghèo ở những đảo nổi, đảo chìm, bãi đá, rặng san hô...

Thế nhưng, những cán bộ, chiến sĩ Hải quân vẫn kiên cường, anh dũng và quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ được giao. Họ cười vượt qua thiếu thốn, khó khăn, gian nan và thử thách. Họ không ngại gian khổ, mất mát, hy sinh để bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Họ - những người lính, người con đất Việt của hôm nay và của cả mai sau vẫn luôn chắc tay súng để đất liền yên giấc ngủ. 

Đất nước này mãi ghi nhớ công ơn các anh. Và, trong sâu thẳm mỗi người Việt Nam, Trường Sa – Hoàng Sa luôn là một phần máu thịt của Tổ quốc, trong lịch sử, hôm nay và mãi mãi.

Thứ Sáu, 17 tháng 2, 2012

"Tàu mẹ - tàu con" ra quân bám biển Trường Sa, Hoàng Sa

Sáng 16-2, ông Lê Đức Vinh - phó chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa - đã phát lệnh ra quân tổ hợp tác gồm sáu ngư đội với 30 chiếc tàu chuyên nghề đánh bắt cá ngừ đại dương và tàu hậu cần Hải Vương 68.
Đây là hình thức tổ hợp tác “tàu mẹ - tàu con”, thực hiện quy trình khép kín khai thác - thu mua - chế biến - xuất khẩu hải sản, nâng cao giá trị đánh bắt cho ngư dân Khánh Hòa.

“Tàu mẹ” Hải Vương 68 xuất bến tại cảng Hòn Rớ (Nha Trang) - Ảnh: M.Tuệ

Xem video do Truyền hình Tuổi Trẻ thực hiện

“Tàu mẹ” còn tham gia kịp thời việc cứu nạn, cứu hộ trên biển khi “tàu con” gặp nạn. Bên cạnh đó, theo thượng tá Lê Hồng Chiến - phó tham mưu trưởng tác chiến Vùng 4 hải quân, việc hình thành các ngư đội bám biển dài ngày tạo nên sự liên kết vững chắc giữa các tàu đánh bắt xa bờ, góp phần quan trọng trong việc khẳng định và bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.

Thực hiện mô hình “tàu mẹ - tàu con”, sáu ngư đội Trường Sa Lớn, Song Tử Tây, Sinh Tồn, Đá Tây, Đá Nam Đá Lát khai thác ở các vùng biển thuộc hai quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa và xung quanh các nhà giàn DK1 của VN, sẽ bán ngay số cá đánh bắt được trong vòng một tuần cho “tàu mẹ” Hải Vương 68 có công suất 1.200CV, có thể mua 25-30 tấn cá ngừ/ngày. Sản phẩm sẽ được sơ chế và cấp đông ngay trên “tàu mẹ”.

Theo Tuổi Trẻ

Thứ Ba, 14 tháng 2, 2012

"Thực túc binh cường" ở Trường Sa

Đứng trước vườn đu đủ, mướp đắng trĩu quả, những luống rau bầu, rau bí xanh non, Trung tá Phạm Văn Hiến-Phó chỉ huy trưởng đảo Trường Sa Lớn tâm sự: “Để cải tạo hòn đảo vốn cằn cỗi, xơ xác trở thành trù phú như hôm nay là cả một quá trình kiên trì, cần mẫn, thể hiện ý chí, quyết tâm khắc phục khó khăn, thực hiện quan điểm “thực túc, binh cường” của cán bộ, chiến sĩ trên đảo!”.

Ít ai ngờ rằng, tứ bề là biển mặn nhưng trên đảo lại có nguồn nước ngọt quanh năm. Nhờ gần chục giếng nước ngọt nên cán bộ, chiến sĩ và nhân dân mới có điều kiện đẩy mạnh công tác tăng gia sản xuất, chăn nuôi gây dựng đàn heo thịt, heo rừng, gà vịt… đủ để bảo đảm cuộc sống, nuôi quân. Điều này đồng nghĩa với việc sức sống ở thị trấn Trường Sa không chỉ dừng lại ở màu xanh cỏ cây, hoa lá mà còn có cả sự hiện diện của những đàn gia súc, gia cầm đông đúc... Thiếu tá Trần Thanh Phương, Trợ lý Hậu cần đảo Trường Sa Lớn cho biết, kết quả tăng gia năm 2011: Rau xanh bình quân 124,9 kg/người/năm; thịt 15,5kg/người/năm; cá 10,8kg/người/năm. Hiện trên đảo vẫn còn đàn lợn gần 100 con; gà, vịt hơn 200 con; 4 vườn rau được quy hoạch một cách rất bài bản.

Chiến sĩ đảo Trường Sa chăm sóc đàn lợn.

Để công tác chăn nuôi phát triển, Ban chỉ huy đơn vị và bộ phận Hậu cần coi trọng việc thuần chủng các giống lợn thích nghi với điều kiện thời tiết, khí hậu khắc nghiệt trên đảo; tận dụng nguồn thức ăn dư thừa; tăng cường che chắn, củng cố hệ thống chuồng trại. Thời kỳ gia súc, gia cầm sinh sản, đơn vị có giải pháp chăm sóc riêng. Mùa đông, che chắn đủ ấm, mùa hạ thoáng mát. Tổ chăn nuôi thường xuyên lập kế hoạch phòng, chống dịch bệnh theo mùa vụ...

Tại các đảo chìm, không có điều kiện xây dựng chuồng trại nên bộ đội chỉ nuôi chó, gà, vịt, chứ không nuôi được lợn. Nuôi chó vừa để “canh” đảo, vừa làm nguồn thực phẩm trong điều kiện mưa, bão dài ngày. Do được bộ đội tận dụng các loại thức ăn dư thừa như: Tôm, cá, cua, ốc... phục vụ chăn nuôi, nên gà, vịt nhanh lớn và mắn đẻ, đủ cung cấp trứng cho bộ đội khẩu phần ăn theo định lượng...

Ở nơi “thừa nắng gió, thiếu đất đai”, việc quy hoạch những khu vườn trồng rau ở đảo nổi không hề đơn giản, bình quân mỗi năm đảo bổ sung từ 10 đến 12m3 đất màu chở từ đất liền ra. Với số tiền Bộ tư lệnh Vùng 4 đầu tư mỗi vườn rau từ 7 đến 8 triệu đồng, cán bộ, chiến sĩ trên đảo huy động hàng nghìn ngày công ngoài giờ cải tạo đất màu. Cán bộ, chiến sĩ tranh thủ thời gian nhặt phân heo, lá cây nhàu, cỏ dại ủ phân xanh. Mỗi lần thay quân là bộ đội lại bổ sung thêm cây giống, con giống. Cách chọn gieo trồng mùa nào thứ ấy không những giúp vườn rau phát triển nhanh, mà còn tránh tình trạng sâu bọ phá hoại. Tại đảo chìm, công tác tăng gia, càng thêm khó khăn. Bộ đội trồng rau vào những khay nhựa tổng hợp đựng đất màu. Trồng rau vào khay nhựa thuận tiện cho việc chăm bón và di chuyển địa điểm mỗi khi có bão gió.

Trong chuyến công tác Trường Sa, khi đến các đảo Thuyền Chài, Đá Lát, Đá Tây... chúng tôi đều bắt gặp hình ảnh những người lính trẻ tiết kiệm từng giọt nước, nâng niu từng cọng rau mới thấy họ trân trọng thành quả, sức lao động và quyết tâm vượt khó biết nhường nào... Dù ở nơi “đầu sóng, ngọn gió”, song nhờ quán triệt và thực hiện tốt quan điểm “thực túc, binh cường” đã giúp những người lính đảo Trường Sa có thể phần nào đáp ứng nhu cầu về rau xanh và thực phẩm tươi sống.

Thứ Hai, 13 tháng 2, 2012

Tiếng hát trên đầu ngọn sóng

Khoác balô đến Nhà khách Hải quân bên sông Sài Gòn, thêm một lần trải nghiệm cảm giác dễ chịu mỗi chuyến “về với lính”, khi cô nhân viên chu đáo rót nước mời khách xong mới xem giấy tờ rồi cười nhỏ nhẹ: “Anh thông cảm, điều kiện Quân đội thiếu tiện nghi lắm, nhà báo chịu khó ở chung với Văn công nhé”! Tưởng gì, thế thì thú vị quá, tôi gật ngay, bụng bảo dạ rằng đã chủ động xin xuống tàu chia sẻ sóng gió với lính Trường Sa thì ngại gì một đêm nằm doanh trại.

Đoàn Văn công Quân khu 4 trước giờ ra Trường Sa

Bước dọc hành lang đã nao nao mùi lính, cái mùi đặc trưng rất khó tả, chỉ biết là mộc mạc gần gũi vô cùng, khiến người ta ấm lòng mà chẳng rõ vì sao. Cửa mở, một cô gái ngước lên vén mái tóc xoăn, nhoẻn cười đặt ngón tay lên môi ra dấu giữ trật tự, rồi chỉ cho tôi một cái giường trống để đặt balô mà ngả lưng. Người đàn ông mặc quân phục gắn lon Thiếu tá ngồi cạnh cũng bắt tay tôi thân thiện rồi lại chăm chú vào một tờ giấy, hình như họ đang lẩm nhẩm tập một ca khúc mới. “Màn chào hỏi” diễn ra trong im lặng vì giữa trưa nên lính tráng nằm ngổn ngang tranh thủ “kéo gỗ” trên hơn chục bộ giường sắt trong căn phòng rộng đơn sơ. Sau này tôi mới biết cô gái đó là Trung úy Nguyễn Tú Ngà, và anh Thiếu tá tên là Dương Xuân Huyền, cùng là ca sĩ đoàn Văn công Quân khu 4.

Văn công với báo chí, giống nhau ở cái nghiệp lang thang và cái đức “hòa mình vào quần chúng”, nên chóng thân quen lắm. Lại được “cùng ăn, cùng ngủ, cùng xe” nên chỉ từ trưa đến tối đã chuyện nở như ngô rang. Càng vui hơn vì không chỉ “có duyên một đêm” trong doanh trại, mà trên tàu HQ 936 tôi và các đồng nghiệp báo chí tiếp tục được ở chung một buồng thủy thủ với Thiếu tá Huyền và Trung tá đoàn phó Lê Hồng Kỳ - nhạc sĩ, Thượng úy Nguyễn Công Long - nghệ sĩ múa, Thiếu úy Lê Phước Cường - phụ trách âm thanh. Những căn buồng dành cho thủy thủ trên tàu, chỉ có 4 giường cá nhân mà cả chục người chen chúc, nhưng chẳng ai lấy thế làm phiền. Nói như một bạn đồng nghiệp, mấy khi được diễm phúc “ra đụng vào chạm” với Văn công từ sáng tới đêm.
Ở chung với họ thật vui, bất cứ sáng trưa chiều tối, thỉnh thoảng một giọng oanh vàng hoặc nam trung lại vút lên khúc quân hành hay đoạn tình khúc ngẫu hứng. Chuyến này, Văn công Quân khu 4 có 10 người ra phục vụ bộ đội Trường Sa, trong đó dễ đến một nửa anh chị em đã hơn một lần đặt chân tới quần đảo xa xôi mà vô cùng thân thương ấy... Lời ca tiếng hát của các anh chị lập tức tiếp thêm lửa cho đoàn quân nô nức đầy khí thế trước giờ xuống tàu. Và ngay đêm đầu tiên giữa đại dương, boong tàu HQ 936 đã rực sáng sân khấu với tiếng nhạc rộn ràng, bất chấp biển đêm lồng lộng gió, sóng cồn trùm lên boong, tạt ướt cả nghệ sĩ và khán giả. Những tràng pháo tay và những lời cổ vũ vang lên đầy nhiệt tình không chỉ sau mỗi tiết mục, mà cả những lúc ca sĩ phải bám chặt cầu thang do tàu bị sóng nhồi chao đảo, nhưng “thà... ngã không rời micrô”. Các nữ nghệ sĩ, Thượng tá Lê Quỳnh Như - Trưởng đoàn, Thiếu tá Nguyễn Bích Ngọc, Thượng úy Nguyễn Lan Hương, Trung úy Nguyễn Tú Ngà đã thay quân phục bằng bộ áo dài duyên dáng. Sau bài hát đầu tiên, những tà áo màu hoen nước mặn, những mái tóc dài gió tạt rối tung, càng khiến các chị đẹp lộng lẫy trên con tàu lung linh ánh điện hiên ngang rẽ sóng giữa biển trời đêm sâu thẳm. Sóng gió gầm gào lắm quãng không rõ lời ca, nhưng ai cũng nghe máu chảy nhanh hơn trong huyết quản...

Tiếp đó, pháo tay lại nổ ran cùng tiếng cười sảng khoái và khâm phục dành cho những tiết mục ảo thuật độc đáo của Trung tá Trần Thanh Tịnh. Tôi tin rằng các ảo thuật gia lừng danh cũng phải “nể” anh Tịnh vì trên sân khấu “đầy bất trắc” này chỉ đứng vững thôi đã khó, một tiết mục đơn giản như xuyên dùi vào bóng bay sao cho bóng không nổ, cũng đòi hỏi sự khéo léo phi thường... Đêm văn nghệ giữa đại dương thực sự thăng hoa khi Thiếu úy Trần Phương Anh uyển chuyển cùng bạn diễn - Thượng úy Nguyễn Công Long trong màn vũ đạo. Bình thường tôi không thích xem múa, có lẽ phần nào vì chẳng am hiểu gì về nghệ thuật này, nhưng các nghệ sĩ trẻ Văn công Quân khu 4 đã “chinh phục” tôi với tiết mục thể hiện tình yêu mãnh liệt của cô gái dành cho anh lính biển, vượt lên mọi cách trở, bão giông. Chẳng thế mà Phương Anh, cô Thiếu úy sinh năm 1992, em út của đoàn, đã được tôn vinh “Hoa hậu HQ 936” trong cuộc thi hoành tráng độc nhất vô nhị tổ chức cũng trên boong tàu này vào đêm cuối hành trình.

Không chỉ biểu diễn hết mình, đoàn Văn công còn luôn để ý chăm sóc mọi người, nhất là các chị dù mệt mỏi vì say sóng nhưng hễ rời đàn hát là lại phụ giúp bếp núc dọn dẹp giặt giũ, chẳng mấy khi ngơi tay. Trên tàu hay lên đảo, những khuôn mặt vừa trang điểm, những đôi tay vừa sửa móng để bước lên sân khấu xong lại cặm cụi bên bếp lửa, dao thớt đảm đang.

Chuyến này, đoàn chúng tôi đến được 4 đảo và nhà giàn DK1. Mỗi khi tàu thả neo, anh em báo chí được ưu tiên xuống xuồng trung chuyển vào trước để tác nghiệp. Gặp lính đảo tay bắt mặt mừng là chuyện đương nhiên, anh em tiếp đón thật nồng hậu và chu đáo, nhưng mấy cậu lính trẻ cứ nhấp nhổm liếc chuyến xuồng đi sau. Cái vẻ “ngong ngóng” ấy không đơn thuần vì nhiệm vụ, mà đầy vẻ háo hức khấp khởi. Có cậu bạo dạn thì nhìn tôi cười ngập ngừng: “Đoàn mình có Văn công anh nhỉ?”. Nghe nói, hồi trước có một lãnh đạo Hải quân ra đảo, thấy lính tráng thiếu thốn đủ thứ, ông hỏi lính thích gì nhất để gửi tàu mang ra, và câu trả lời của lính là: "Thủ trưởng điều cho chúng em một cô văn công. Ra đây chẳng cần hát hò gì cả, chỉ cần đi lòng vòng quanh đảo cho chúng em ngắm thôi". Có ra đảo mới thấm, thiếu rau thiếu nước còn chịu được, chứ thiếu thốn tình cảm mới thật là thử thách lớn nhất. Mừng rằng Trường Sa ngày càng được quan tâm, đầu tư nhiều hơn, thông tin liên lạc thuận tiện nên không còn xa đất liền như trước. Dù vậy, mỗi khi có đoàn ra mà có cả Văn công thì lính đảo vẫn mừng hết sức.


Lần nào cũng vậy, lên đảo là Văn công lập tức ôm đàn sà vào ngồi giữa anh em lính đảo, chỉ đợi Đảo trưởng báo cáo, lãnh đạo đoàn công tác “năm câu ba điều” xong là tiếng hát vút lên. Nhưng thường các chị hát chưa hết một câu đã nghẹn ngào rơi lệ thương đồng đội. Những gian khổ hy sinh của người lính Trường Sa thật khó nói hết bằng lời, song lại dễ dàng cảm nhận được bằng trái tim, nhất là trái tim của những người tay cầm đàn cầm sáo nhưng cũng khoác màu xanh áo lính. Nhà giàn DK1, đảo Đá Lát, đảo Đá Tây, đảo Cô Lin... ở đâu Văn công gặp lính đảo là những giọt nước mắt xúc động tuôn trào cùng nốt nhạc lời ca. Thượng tá Lê Quỳnh Như - Trưởng đoàn Văn công Quân khu 4 tâm sự: “Lần nào ra với anh em Trường Sa, mình cũng không cầm được nước mắt. Lên đảo thương anh em đã đành, có lần sóng lớn quá không vào đảo được, phải dùng loa hát vọng vào thì càng thương thắt ruột, vừa hát vừa khóc”.

Thiếu tá Dương Xuân Huyền cũng chia sẻ: “Là nghệ sĩ, ai cũng thường xuyên xa nhà đi biểu diễn phục vụ khắp nơi, nhưng được hát ở Trường Sa thực sự là hạnh phúc, là niềm tự hào đối với bất kỳ ca sĩ nào. Mình đã biểu diễn ở nhiều vùng sâu vùng xa, chưa có nơi nào khiến mình xúc động nhiều như ngoài đảo”...

Buổi giao lưu văn nghệ để lại cho chúng tôi nhiều ấn tượng nhất là đêm ở Trường Sa Lớn. Biết tin có đoàn ra thăm, lính đảo đã chuẩn bị chu đáo từ hôm trước. Bên cạnh “hậu cần” tươm tất, họ còn gom hoa dại thành từng bó tuyệt đẹp và tết cả những chiếc “vương miện” độc đáo. Sau mỗi tiết mục, giữa tiếng hò reo vỗ tay rầm trời, các chàng lính trẻ tinh nghịch giấu hoa sau lưng ào lên sân khấu tặng ca sĩ những chiếc lá cây phong ba, cây bàng vuông. Khi Văn công cúi chào “cảm tạ”, lính mới quỳ một chân xuống dâng hoa lên tặng, hoặc choàng vòng hoa lên mái tóc các chị. Tiết mục nào cũng có vài chàng lính phong trần mạnh dạn hòa ca với các nghệ sĩ, trong sự cổ vũ cuồng nhiệt của đồng đội. Không gì xúc động bằng nghe lính hát ngoài đảo, những lời ca mang sức mạnh dồn nén tự đáy lòng cứ cuộn lên như gió ngàn sóng cả, lúc ngân vang hùng tráng tựa lời thề giữ nước, khi lắng đọng thẳm sâu như ước nguyện đôi lứa sắt son...

Những bài ca nối tiếp bài ca dù trời đã về khuya, chẳng ai muốn kết thúc đêm giao lưu cho đến khi cơn mưa giông bất chợt đổ xuống như trút nước. Chúng tôi đội mưa chạy về tàu mà ngỡ đang trong một đợt “xung phong”, bởi hàng trăm người lính đảo rầm rập chạy theo tiễn với tiếng hò reo lưu luyến. Suốt đời tôi sẽ không bao giờ quên cảnh tượng đêm ấy, khi chúng tôi đứng dọc boong tàu, còn những người lính Trường Sa cũng xếp hàng dọc cầu tàu của đảo. Tất cả mọi người ướt sũng dưới mưa xối, nhưng cứ say sưa vừa vỗ tay vừa hát vang cùng nhau thay lời chào tạm biệt. Tiếng hát át cả tiếng mưa giông ào ạt, ngân nga cuốn vào đại dương theo từng nhịp sóng cuộn trào.