Trang

Hiển thị các bài đăng có nhãn Hoàng Sa. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hoàng Sa. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 25 tháng 3, 2013

Bắn cháy tàu cá VN, Trung Quốc tạo cớ chiến tranh mang tên “hòa bình”


Tàu cá QNg 96382 của ngư dân Lý Sơn (Quảng Ngãi) vừa bị tàu tuần tra của Trung Quốc bắn cháy rụi nóc Cabin khi đang đánh bắt tại vùng biển Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Hành động côn đồ, ngang ngược này xảy ra vào ngày 20/3, nhưng mãi đến ngày 23/3, khi tàu này cập bờ về Lý Sơn trong tình trạng tơi tả, Cabin của tàu cùng nhiều đồ đạc bị cháy nham nhở thì thông tin trên mới được cập nhật.
Tàu Trung Quốc số hiệu 786 đã nổ súng vào tàu cá ngư dân Việt Nam
Tàu Trung Quốc số hiệu 786 đã nổ súng vào tàu cá ngư dân Việt Nam
Trước đó, tàu cá QNg 50949 do thuyền trưởng Bùi Văn Trung (xã Bình Châu, Bình Sơn) điều khiển cũng đã trình báo với Thiếu tá Nguyễn Ngọc Thận, cán bộ Biên phòng Bình Hải về việc bị tàu Hải giám Trung Quốc đuổi bắt và cướp bóc tài sản một cách trắng trợn, điên cuồng.
Tại hiện trường, nóc ca bin của tàu cá của ngư dân Việt Nam bị đạn lửa thiêu cháy.
Tại hiện trường, nóc ca bin của tàu cá của ngư dân Việt Nam bị đạn lửa thiêu cháy.
Trong khi đó, giới lãnh đạo Trung Quốc lại lật lọng, nói lời hai mặt khi phát biểu kết thúc kỳ họp Quốc hội Trung Quốc (17/3), tân Thủ tướng Lý Khắc Cường đã bác bỏ mối quan ngại quốc tế cho rằng Trung Quốc đang trở thành mối đe doạ và nhấn mạnh “Bắc Kinh sẽ không chủ trương theo đuổi bá quyền này ngay cả khi trở nên hùng mạnh hơn”.
Những phát biểu này dường như trùng khớp với các tuyên bố trước đó của tân Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trong một diễn văn công khai đầu tiên về các quan điểm đối ngoại của mình. Ông Tập Cận Bình tìm mọi cách để cân bằng những cam kết theo đuổi hoà bình với lời cảnh báo rằng có những yêu cầu của Trung Quốc là bất khả xâm phạm.
Nóc cabin tàu QNg 96382 TS của thuyền trưởng Phải bị bắn cháy đen.
Nóc cabin tàu QNg 96382 TS của thuyền trưởng Phải bị bắn cháy đen.
Điều này khiến dư luận nhớ lại trận hải chiến Hoàng Sa 25 năm về trước. Trong bối cảnh Trung Quốc không hề che giấu dã tâm muốn thống trị hoàn toàn biển Đông, giới phân tích tự hỏi liệu Trung Quốc có thể tái lập kịch bản đánh úp Việt Nam như vào năm 1988 hay không?
Có thể cắt nghĩa như thế nào về những cam kết chuộng hoà bình mà giới lãnh đạo mới của Trung Quốc luôn ra rả mỗi ngày trên các phương tiện truyền thông đại chúng, nhưng lại tạo đà để cho các tàu hải giám nước này tác oai, tác quái, bắn phá và cướp bóc một cách trắng trợn các tàu cá của ngư dân Việt Nam khi đang đánh bắt tại khu vực biển chủ quyền nước ta. Đây rõ ràng là hành động gây hấn, tạo cớ chiến tranh với vỏ bọc “hoà bình”, Trung Quốc quả không hổ danh là bậc thầy hai mặt về chiêu trò “nói một đằng làm một nẻo”.
Bạch Dương
(Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả)

Thứ Hai, 24 tháng 12, 2012

Quốc tế chưa bao giờ và sẽ không bao giờ công nhận đường 'lưỡi bò'


Tuy có những đánh giá khác nhau về nội dung và tính chất của “đường lưỡi bò”, một số học giả Trung Quốc và Đài Loan vẫn cố tình khẳng định rằng, đường này đã được quốc tế công nhận rộng rãi.

Quốc tế chưa bao giờ và sẽ không bao giờ công nhận đường 'lưỡi bò'
Quốc tế chưa bao giờ và sẽ không bao giờ công nhận đường 'lưỡi bò'

Các học giả Đài Loan giải thích, đường này thể hiện yêu sách đối với các đảo, đá, bãi cạn nửa nổi nửa chìm trong phạm vi “đường lưỡi bò” từ năm 1946. Còn các học giả Trung Quốc cho rằng, đây là đường biên giới truyền thống trên Biển Đông và Trung Quốc yêu sách không chỉ các địa vật mà cả vùng nước bên trong và kế cận.
Theo họ, trước những năm 1960 và 1970, Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và các nước Đông Nam Á khác đều không đưa ra phản đối yêu sách “đường lưỡi bò”. Điều đó chứng tỏ, các nước này đã công nhận và mặc nhiên chuẩn y đường này cũng như “tính chất lịch sử” của nó. Điều đó cũng chứng tỏ, các quốc gia này đã công nhận cả 4 quần đảo (Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa) thuộc chủ quyền Trung Quốc.

Nhưng sự thật lại không phải như vậy.

Trước hết, phải khẳng định ngay rằng, kể từ khi Trung Quốc xuất bản bản đồ có “đường lưỡi bò” từ năm 1948 đến năm 2009, nước này chưa bao giờ đưa ra yêu sách chính thức vùng nước nằm trong “đường lưỡi bò” là “vùng nước lịch sử”.

Đại diện của Trung Quốc tham gia Hội nghị của Liện Hợp Quốc về Luật Biển lần thứ 3 đã không có tuyên bố gì về “đường lưỡi bò”. Đặc biệt, trong quá trình xây dựng và công bố các văn bản quy phạm pháp luật về biển của mình, Trung Quốc cũng không hề đề cập đến “đừng lưỡi bò”. Chẳng hạn như Tuyên bố quy định lãnh hải 12 hải lý năm 1958; Luật về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp lãnh hải năm 1992; Luật về Đường Cơ sở lãnh hải năm 1996; Luật về vùng Đặc quyền về kinh tế và Thềm lục địa năm 1998; Luật về quản lý và sử dụng biển năm 2001; Luật về nghề cá năm 2004,…

Theo luật pháp quốc tế, một yêu sách có liên quan đến biên giới lãnh thổ quốc gia hợp pháp phải thể hiện rõ ràng, công khai ý chí về chủ quyền trên lãnh thổ mà quốc gia đó yêu sách. Những hành vi bí mật không thể tạo nên cơ sở cho quyền lịch sử; ít nhất các quốc gia khác phải có cơ hội biết được cái gì đang diễn ra.

Theo TS. Hoàng Việt, giảng viên Trường Đại học Luật TP. HCM, việc cho xuất bản bản đồ của một cá nhân mà không công bố rõ ràng trước cộng đồng quốc tế thì không thể gọi là một yêu sách lãnh thổ của một quốc gia được.

Vì Trung Quốc chưa bao giờ công bố chính thức yêu sách về vùng biển bên trong “đường lưỡi bò”, tính đến năm 2009, nên các quốc gia khác không đưa ra phản ứng chính thức gì cũng là một điều dễ hiểu. Sự im lặng đó không thể hiểu là “mặc nhiên thừa nhận” được. Chưa nói đến, trong thực tế, cộng đồng khu vực và quốc tế đã không hề im lặng mỗi khi nhìn thấy “đường lưỡi bò” xuất hiện trong các tài liệu, bản đồ, sơ đồ,… do Trung Quốc phát tán trong các diễn đàn khu vực và quốc tế.

Liên quan đến “4 quần đảo” giữa Biển Đông mà Trung Quốc khẳng định rằng, họ có “chủ quyền lịch sử”, đã được công nhận rộng rãi trên trường quốc tế, nên họ có quyền vạch ra“đường lưỡi bò” để xác định các “vùng biển liên quan”, “vùng biển liền kề”. Chúng ta hãy xem xét luận điểm này thông qua một số sự kiện chủ yếu có liên quan đến phản ứng của các nước trước những tuyên bố chủ quyền đối với các quần đảo này.

Sự kiện đáng chú ý liên quan đến hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa không thể không nhắc đến là, theo yêu cầu của ông Gromyko (đại diện của Liên Xô), trong phiên họp toàn thể ngày 5/9/1951 tại Hội nghị San Francisco, Nhật Bản phải thừa nhận chủ quyền của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đối với một loạt lãnh thổ, trong đó có các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng đề xuất này đã bị 46 nước trong tổng số 51 nước có mặt ngày hôm đó bác bỏ.

Ông Đinh Kim Phúc, giảng viên khoa Đông Nam Á, Đại học Mở TP.HCM cho biết: “Chính Thủ tướng của Chính phủ Bảo Đại Trần Văn Hữu, lúc bấy giờ, đã trịnh trọng tuyên bố trước Hội nghị ở San Francisco rằng, để xóa tan những nghi ngờ, những mầm mống xung đột về sau thì Việt Nam tuyên bố Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam như nó đã vốn có từ trước. Lời tuyên bố đó đã được ghi vào biên bản của hội nghị.”

Như vậy, trong các tuyên bố hay các thỏa thuận đa phương, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chưa bao giờ được xem là của Trung Quốc. Nói cách khác, cộng đồng quốc tế chưa bao giờ công nhận hai quần đảo này thuộc Trung Quốc. Thực tế này cùng những đòi hỏi chủ quyền của Philippines và Malaysia đối với hầu như toàn bộ hoặc một bộ phận của quần đảo Trường Sa cho thấy, không thể nói “đường đứt khúc 9 đoạn” trên Biển Đông đã được các nước khác công nhận.

Các quốc gia chỉ có thể phản đối một khi quốc gia kia đã nêu yêu sách chính thức và rõ ràng. Chúng ta đã bàn chi tiết về đặc điểm mập mờ của “đường lưỡi bò” của phía Trung Quốc. Do đó, chỉ có thể phản đối yêu sách này trong trường hợp Trung Quốc chính thức đưa ra yêu sách.

Các học giả quốc tế thống nhất cho rằng, thời điểm Trung Quốc gửi hai Công hàm ngày 7/5/2009 lên Liên Hợp Quốc, trong đó có kèm bản đồ “đường lưỡi bò” mới là thời điểm đầu tiên bản đồ này xuất hiện công khai trước cộng đồng quốc tế.

Và ngay khi “đường lưỡi bò” chính thức xuất hiện trước cộng đồng quốc tế, ngày 8/5/2009, Việt Nam đã gửi Công hàm để phản đối.

Công hàm này nêu rõ: “Các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là bộ phận của lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam có chủ quyền không thể chối cãi đối với các quần đảo này. Yêu sách của Trung Quốc đối với các đảo và vùng biển lân cận ở Biển Đông như được minh hoạ trên bản đồ đính kèm với các Công hàm CML/17/2009 và CML/18/2009 không hề có cơ sở pháp lý, lịch sử và thực tế, do đó vô hiệu.”

Ngày 8/7/2010, Indonesia, một quốc gia không hề dính líu đến tranh chấp Biển Đông, đã chính thức gửi Công hàm lên Liên Hợp Quốc để phản đối yêu sách này của Trung Quốc. Công hàm của Indonesia viết: “Cái gọi là “bản đồ đường đứt đoạn” kèm theo Công hàm số: CML/17/2009, ngày 7/5/2009 nói trên rõ ràng thiếu cơ sở pháp lý quốc tế và đi ngược lại các quy định của Công ước Luật Biển 1982 của Liên Hợp Quốc.”

Ngày 5/4/2011, Philippines cũng gửi một Công hàm lên Liên Hợp Quốc để phản đối “đường lưỡi bò” của Trung Quốc.

Trong tuyên bố ngày 23/7/2010 tại Hà Nội, Ngoại trưởng Mỹ Clinton đã lên tiếng phản đối những yêu sách biển không tuân thủ Công ước Luật biển 1982 mà “đường lưỡi bò” chính là đối tượng được nhắc đến.

Ông Marvin Ott, Giáo sư Trường Đại học Johns Hopkins cho rằng: “Bằng cách tuyên bố chủ quyền đối với hầu hết khu vực Biển Đông thông qua “đường lưỡi bò”, có nghĩa rằng, toàn bộ khu vực này thuộc về Trung Quốc thì không có một quốc gia lớn nào trên thế giới có thể ủng hộ đòi hỏi này. Mỹ không ủng hộ. Ấn Độ không ủng hộ. Cộng đồng châu Âu không ủng hộ. Australia không ủng hộ. Nhật Bản không ủng hộ. Không có nước nào ủng hộ tuyên bố này của Trung Quốc.”

GS. Erik Franckx, Trưởng Khoa Luật Quốc tế và châu Âu, Đại học Brussel, Bỉ phân tích, “những hành động vừa nêu tuân thủ các tiêu chuẩn của luật pháp quốc tế cần thiết để tạo nên các hành động phản đối có hiệu lực pháp lý, do đó, “đường lưỡi bò” không thể được sử dụng chống lại các quốc gia phản đối. Tiêu chuẩn về mặt thời gian cũng đã được đáp ứng vì các quốc gia đã phản đối ngay khi có các hành động của Trung Quốc. Yêu cầu về mục đích rõ ràng cũng được đáp ứng vì các tuyên bố của Việt Nam và các nước khác rõ ràng nhằm mục đích ngăn chặn việc có hiệu lực các hành vi pháp lý mới của Trung Quốc ”.

Bà Monique Chemillier Gendreau, Giáo sư Công pháp và Khoa học Chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu kết luận: “Điều quan trọng là phải có sự đồng ý của các quốc gia khác thì đó mới có thể coi là quyền hợp pháp. Nếu các nước khác không đồng ý thì không thể gọi là Trung Quốc có quyền và có tính hợp pháp về “đường lưỡi bò” được.”

Hơn nữa, điều đáng nhấn mạnh ở đây là, trong các văn bản quy phạm pháp luật do Trung Quốc công bố không những không nhắc đến “đường đứt khúc 9 đoạn”, mà ngay cả nội dung thể hiện trong đó còn mâu thuẫn với quan điểm chính thức của Trung Quốc về “đường lưỡi bò”.

Chẳng hạn, Tuyên bố của Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa về lãnh hải năm 1958 quy định: “Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tuyên bố: Bề rộng lãnh hải của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý. Quy định này áp dụng cho tất cả lãnh thổ của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, bao gồm lục địa và các đảo ven bờ, cũng như Đài Loan và các đảo phụ cận, Bành Hồ, Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa, Nam Sa quần đảo và tất cả các đảo thuộc Trung Quốc được tách rời khỏi lục địa và các đảo ven bờ bởi biển cả.”

Như vậy, Tuyên bố năm 1958 của Trung Quốc đã xác định rõ ràng, các đảo bị tách biệt bởi biển cả, tức là vùng biển tự do quốc tế, chứ không phải là “vùng nước lịch sử” thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Chẳng lẽ lại tồn tại vùng biển cả nằm trong nội thuỷ của Trung Quốc? Không thể có điều vô lý đó.

Thêm nữa, Tuyên bố của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa về Lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải năm 1992; Tuyên bố của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa về đường cơ sở để tính chiều rộng của lãnh hải năm 1996,… đều có những nội dung mâu thuẫn tương tự.

Thượng nghị sỹ John McCain, một chính khách và từng là ứng cử viên Tổng thống Mỹ của Đảng Cộng hoà khẳng định, tuyên bố của Trung Quốc như vậy là không đúng sự thật: “Trung Quốc đã tuyên bố đường đứt khúc 9 đoạn. Họ cho rằng, phần lớn khu vực Biển Đông thuộc về lãnh thổ Trung Quốc. Đó là một tuyên bố không đúng sự thật. Khu vực này là vùng biển quốc tế”.

Các học giả Trung Quốc còn viện dẫn một số trường hợp yêu sách vùng nước lịch sử trong thực tiễn quốc tế như yêu sách của Liên Xô cũ ngày 20/7/1957 tại vịnh Pierre Đại đế; yêu sách của Libya ngày 11/10/1973 tại vịnh Sidra. Theo họ, các ví dụ này chứng tỏ trong thực tiễn quốc tế, luật về các vịnh lịch sử đã có được một quy chế pháp lý riêng biệt và như vậy, yêu sách “đường đứt khúc 9 đoạn” của Trung Quốc là hợp pháp. Cần phải khẳng định ngay rằng, lập luận này chỉ dựa trên cơ sở một số trường hợp yêu sách quá đáng vùng nước lịch sử mà pháp luật quốc tế luôn phê phán. Các trường hợp này không tạo ra được tiền lệ trong luật pháp và thực tiễn quốc tế và không được quốc tế công nhận.

Như vậy, rõ ràng, “đường đứt khúc 9 đoạn” chiếm khoảng 80% diện tích Biển Đông, được Trung Quốc “biến hóa” thành “vùng nước lịch sử” là không có cơ sở pháp lý. Giáo sư Lý Lệnh Hoa (Trung tâm Thông tin Hải Dương Trung Quốc) đã phê phán: “Chứng cứ thật sự có sức thuyết phục, chính là sự kiểm soát thực tế… Anh nói chỗ đó là của anh, vậy anh đã từng quản lý nó chưa? Người ở đó có phục tùng sự quản lý của anh không? Có phải người khác không có ý kiến gì không? Nếu đáp án của những câu hỏi này đều là “có”thì anh thắng là điều chắc. Ở Nam Sa chúng ta không có được điều đó”.

Thứ Tư, 19 tháng 12, 2012

Trung Quốc lại đưa đường lưỡi bò vào game


Trò chơi trực tuyến Chinh Đồ 2.0 của Công ty Giant Interactive (Trung Quốc) do Công ty VNG phân phối duy nhất tại Việt Nam đang bị game thủ phản ứng dữ dội vì để “đường lưỡi bò xuất hiện trên bản đồ biển Đông”.
Cụ thể trong bản đồ các bang hội của trò chơi này, phần thể hiện mười quốc gia trong phiên bản “anh hùng thập quốc” có một hình bản đồ nhỏ bên góc phải phía dưới. Bản đồ nhỏ này thể hiện vùng biển Đông gồm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam nhưng lại nằm trong hình “lưỡi bò” của Trung Quốc.
Đường lưỡi bò xuất hiện trong bản đồ các bang hội của game Chinh đồ 2.0
Đường lưỡi bò xuất hiện trong bản đồ các bang hội của game Chinh đồ 2.0
Game thủ phản ứng
Anh Hải (quận Tân Bình, TP.HCM) tỏ ra rất tức giận: “Tôi là một game thủ đã chơi Chinh Đồ từ trước đến giờ. Tôi cũng như nhiều bạn khác chơi game này cho rằng việc bản đồ lưỡi bò là điều không thể nào chấp nhận được”. Game thủ Tố Nga đã chơi Chinh Đồ ngay từ những ngày đầu tiên cũng cho biết: “Đây là một hành vi rất thâm hiểm của công ty phía Trung Quốc, nhưng Công ty VNG cũng đã phạm sai lầm khi để lọt tấm bản đồ trên. Họ cần phải xử lý việc này ngay lập tức”…
Nhiều game thủ khác kiến nghị cơ quan chức năng phải rà soát thật kỹ tất cả trò chơi trực tuyến xuất xứ từ Trung Quốc hiện đang lưu hành tại thị trường Việt Nam thông qua các công ty trong nước. Các phản ảnh đều có chung nhận định: “Công ty Trung Quốc đang lợi dụng chuyện kinh doanh để làm chính trị. Trong khi doanh nghiệp game online trong nước vì lợi ích riêng mà bỏ quên trách nhiệm với chủ quyền đất nước Việt Nam”.
Game thủ chơi game Chinh Đồ 2.0 tại một tiệm Internet ở Q.Tân Bình, TP.HCM chiều 18-12
Game thủ chơi game Chinh Đồ 2.0 tại một tiệm Internet ở Q.Tân Bình, TP.HCM chiều 18-12
VNG bất ngờ
Trao đổi với Tuổi Trẻ về vấn đề này, ông Bùi Minh Phương, giám đốc khối phát hành game Công ty VNG, cho biết trò chơi Chinh Đồ được VNG nhập từ đối tác Trung Quốc và phát hành phiên bản đầu tiên vào hè năm 2008.
Từ đó đến nay, trò chơi luôn được cập nhật thường xuyên nội dung để hấp dẫn người chơi. “Lần cập nhật nội dung mới nhất của Chinh Đồ được thực hiện vào ngày 14-12-2012 và đưa lên máy chủ thực tế vào thứ bảy (15-12). Qua hôm sau, đội ngũ kỹ thuật của VNG đã phát hiện tấm bản đồ này và xóa bỏ vào đêm chủ nhật (16-12). Phía VNG rất bất ngờ vì tấm bản đồ nằm ngoài bản yêu cầu nội dung cập nhật VNG gửi cho nhà sản xuất. Bản đồ nằm sâu trong phần hướng dẫn chơi game nên VNG đã không phát hiện sớm ngay khi thử nghiệm.
Tấm bản đồ có đường lưỡi bò không nằm trong thỏa thuận về nội dung khi hợp tác phát hành game, bởi nhà cung cấp đã tự động đưa vào và không cho nhà phát hành biết” – ông Phương nói.
Bà Đoàn Đỗ Ngọc Thi, trưởng ban truyền thông Công ty VNG, cho biết đây là một sai sót của VNG khi kiểm tra nội dung trò chơi, bởi phiên bản có rất nhiều chi tiết và tấm bản đồ này nằm sâu trong phần hướng dẫn chơi. Tiêu chí của VNG khi phát hành trò chơi là tôn trọng pháp luật Việt Nam, tôn trọng chủ quyền quốc gia và kiên quyết nói không với các đối tác không thực hiện nghiêm túc tiêu chí này.
Hiện VNG đã gửi công văn cho nhà sản xuất trò chơi Chinh Đồ về sự việc này. Tối qua, VNG cho biết đã chấm dứt hợp tác với nhà sản xuất này, bồi thường thiệt hại cho người chơi và ngừng phát hành trò chơi Chinh Đồ từ ngay ngày 19-12-2012.
Dù việc đóng cửa trò chơi sẽ gây thiệt hại rất lớn cho VNG nhưng là một doanh nghiệp do người Việt thành lập, VNG sẽ mạnh tay với các đối tác vi phạm nội dung liên quan đến văn hóa, chính trị và lãnh thổ. Theo bà Thi, hiện VNG đang phát hành năm trò chơi tương tự Chinh Đồ và bộ phận kỹ thuật của VNG đang rốt ráo rà soát nội dung của năm trò này để tránh sự cố như trên.
Yêu cầu gỡ bỏ ngay bản đồ lưỡi bò!
Trao đổi với Tuổi Trẻ, bà Trần Thị Ngọc Hương, chánh thanh tra Sở Thông tin – truyền thông TP.HCM, cho biết trước mắt sẽ yêu cầu VNG gỡ bỏ ngay bản đồ lưỡi bò nêu trên. Đồng thời sở sẽ đối chiếu với kịch bản ban đầu trong hồ sơ của Công ty VNG. Nếu có sai sót, sở sẽ có biện pháp xử lý thích đáng.


Thứ Ba, 11 tháng 12, 2012

Trung Quốc xây dựng trái phép tại Hoàng Sa


Trung Quốc vừa cho xây dựng trái phép một trạm giám sát khí quyển tại quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, nối tiếp những hành động sai trái của nước này tại Biển Đông trong thời gian qua.

Một nhóm đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Ảnh: Oceandots
Một nhóm đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Ảnh: Oceandots

Hãng tin Xinhua của Trung Quốc hôm qua đưa tin nước này vừa chính thức khởi công xây dựng trạm giám sát tổng hợp khí quyển tại quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Mục đích của việc xây dựng này là nhằm triển khai việc bảo vệ môi trường tại Biển Đông, và phục vụ cho cái gọi là "nhu cầu thực hiện chủ quyền quốc gia và quản lý các công việc liên quan đến lãnh thổ".

Đây là hành động sai trái tiếp theo của Trung Quốc tại Biển Đông trong thời gian qua. Hôm 30/11, hai tàu cá Trung Quốc đã cố tình cản trở và gây đứt cáp tàu Bình Minh 02 của Việt Nam, khi tàu này đang tiến hành thăm dò địa chấn bình thường trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam.

Trước đó, tỉnh Hải Nam của Trung Quốc ra quy định mới về “Điều lệ quản lý trị an biên phòng ven biển tỉnh Hải Nam”, trong đó đưa hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam vào phạm vi áp dụng. Ngày 23/11, Trung Quốc cho xuất bản bản đồ “Tam Sa”, phạm vi bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam.

Trung Quốc còn phát hành hộ chiếu phổ thông điện tử loại mới có hình bản đồ nước này kèm theo đường lưỡi bò, một định nghĩa nhằm tuyên bố chủ quyền tại Biển Đông. Việc làm này bị các nước liên quan như Việt Nam và Philippines phản đối mạnh mẽ.

Ngày 3/12, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã trao công hàm phản đối một loạt sự việc trên. Hôm 4/12, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị cũng tuyên bố các việc làm của Trung Quốc đã làm cho tình hình Biển Đông thêm phức tạp.

“Những hành động của phía Trung Quốc đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; xâm phạm quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam đối với các vùng biển của Việt Nam; vi phạm Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc ký tháng 10/2011; trái với tinh thần Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và Tuyên bố cấp cao kỷ niệm 10 năm DOC, làm cho tình hình Biển Đông thêm phức tạp", thông cáo của người phát ngôn viết.

Ông Nghị cho biết thêm rằng đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam đã gặp đại diện Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội trao công hàm kiên quyết phản đối những việc làm nói trên của Trung Quốc, yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền của Việt Nam, chấm dứt ngay những việc làm sai trái đó và không để tái diễn những hành động tương tự.

VNExpress

Thứ Năm, 23 tháng 8, 2012

Đã đến lúc quyết liệt bảo vệ chủ quyền Biển Đông


Trung Quốc đang trỗi dậy. Họ tăng cường tiềm lực quân sự vượt ngoài giới hạn phòng thủ. Họ coi Việt Nam là trở ngại lớn nhất cần phải dẹp bỏ đầu tiên trong chiến lược độc chiếm Biển Đông của mình.

Vì vậy, không còn con đường nào khác, chúng ta phải cảnh giác cao độ, phải chuẩn bị toàn bộ để đối phó với nguy cơ này.

Chúng ta còn nhớ gần đây nhất trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ, dân tộc ta hầu như từ hai bàn tay trắng mà phải đối đầu với xe tăng, đại bác.

Hai chiến hạm hiện đại nhất Việt Nam sẽ góp phần làm tăng khả năng, sức mạnh quản lý bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc
Hai chiến hạm hiện đại nhất Việt Nam sẽ góp phần làm tăng khả năng, sức mạnh quản lý bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc

Tuy giành được độc lập, thống nhất đất nước nhưng phải trải qua bao khó khăn gian khổ, xương chất thành núi, máu chảy thành sông, thời gian chiến tranh dài như vô tận, ba thế hệ con người Việt Nam lên đường ra trận.

Với quyết định “đưa thẳng lực lượng không quân, hải quân… lên chính quy, hiện đại” (thay vì trước đây chỉ là “tiến dần lên chính quy, hiện đại”). Đây là quyết định sáng suốt, nhạy bén của Đảng, Nhà nước cho công cuộc bảo vệ Tổ quốc trước những thách thức về an ninh chủ quyền biển đảo trong tình hình hiện nay.

Dù phải “thắt lưng buộc bụng”, chịu cực khổ thêm một chút để có vũ khí trang bị (VKTB) hiện đại dành cho quân đội của mình thì nhân dân Việt Nam vẫn sẵn sàng. Tiền bạc, của cải không bao giờ mua được máu xương, nhưng khi nó giảm thiểu được máu xương thì dân tộc Việt không bao giờ tiếc.

Tuy nhiên, Việt Nam còn nghèo, không thể chạy đua vũ trang nên về VKTB chuẩn bị có lựa chọn, hiện đại, nhưng phải phù hợp lối đánh, về xây dựng lực lượng thì tinh gọn, thiện chiến, đủ để làm cho kẻ thù phải trả một giá đắt khó chịu đựng nếu chúng liều lĩnh xâm phạm.

Quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam đã bị TQ chiếm từ năm 1974
Quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam đã bị TQ chiếm từ năm 1974

Để bảo vệ Tổ quốc trước một kẻ thù đông người lắm của, chúng ta ngoài phải tự lực cánh sinh, dựa vào sức mạnh dân tộc là chính thì chúng ta cũng phải tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, dựa vào sự ủng hộ chí tình chí nghĩa của các nước bạn bè.

Trung Quốc từng cảnh báo Việt Nam nào là “nước xa không cứu được lửa gần”; nào là “Mỹ có lợi ích với Trung Quốc nhiều hơn với Việt Nam, nếu khi Trung Quốc tấn công Việt Nam thì Mỹ sẽ bỏ mặc Việt Nam”, v.v… Nghĩa là đừng có “thân Mỹ, không lợi lộc gì đâu; đừng có thân Nga, xa lắm, lửa gần không cứu được đâu. Việt Nam chỉ còn cách thuần phục Trung Quốc mà thôi”(!).

Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam đón Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Leon Panetta.
Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam đón Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Leon Panetta.

Rõ ràng là Trung quốc không muốn Việt Nam là bạn với những quốc gia này. Bởi lẽ, ngày trước chỉ có Liên Xô giúp đỡ hạn chế, Trung Quốc thì giúp một phá ba (họ quá rõ), mà Việt Nam vẫn thống nhất được hai miền thì ngày nay nếu Nga, Ấn Độ, Mỹ, Nhật Bản… là những đối tác chiến lược toàn diện thì Trung Quốc khó có thể dọa nạt được Việt Nam.

Biển Đông không phải là cái hồ của Trung Quốc, nó là nơi gắn liền “lợi ích quốc gia” của rất nhiều nước. Vì thế không đời nào các quốc gia liên quan chịu để yên cho Trung Quốc làm gì thì làm hòng nuốt trọn Biển Đông.

Đây là cơ hội để Việt Nam có nhiều “đồng minh tự nhiên”, là chủ thể và khách thể trên biển Đông nên Việt Nam có nhiều lựa chọn những đối sách thích hợp để bảo vệ chủ quyền.

Việc Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam tuyên bố chính sách “ba không” (với Trung Quốc) có nghĩa là: “Nếu Việt Nam không bị nước nào tấn công xâm lược hoặc đe dọa xâm lược thì quốc phòng Việt Nam thực hiện theo chính sách “ba không”. Còn nếu như anh (Trung Quốc?) mà tấn công xâm lược hoặc đe dọa xâm lược Việt Nam thì… chẳng lẽ Việt Nam tự trói tay, trói chân, trùm chăn lại cho anh đánh? Việt Nam sẽ làm tất cả để bảo vệ Tổ quốc mình”.

Vậy, Việt Nam có tìm cách liên minh với những quốc gia mà họ cũng có những nguy cơ giống Việt Nam hay không?

Giả sử ta có với Nga hay Mỹ một hiệp ước phòng thủ chung nào đó thì khi Việt Nam bị xâm lược hoặc bị đe dọa xâm lược thì khuôn khổ hiệp ước cũng chỉ giới hạn là phía đối tác sẽ hỗ trợ ta về kinh tế, quân sự (bao gồm vũ khí trang bị, chia sẻ tin tức tình báo…) mà thôi. Không thể hơn và không nên hơn vì nợ gì, nợ ai, con cháu đều có thể trả, nhưng nợ máu thì bất luận ý nghĩa gì cũng khó trả.

Cho nên, không liên minh quân sự với quốc gia nào như tuyên bố của tướng Vịnh là đắc sách. Nhưng hợp tác, đối tác chiến lược toàn diện… song phương là một nhu cầu tất yếu và bức thiết.

Hợp tác chiến lược; đối tác chiến lược toàn diện khi đã được 2 nước “nâng lên tầm cao mới” thì so với “liên minh quân sự” cũng chỉ là cách gọi.

Nga, Mỹ, Ấn Độ và Nhật Bản… là những đối tác rất quan trọng, là ưu tiên hàng đầu của chúng ta. Đối tác chiến lược với họ chính là một trong các nguồn lực để bảo vệ chủ quyền.

Cùng hợp tác khai thác dầu khí trên biển Đông là biểu hiện sự kết hợp kinh tế với chủ quyền tỏ ra rất hiệu quả.

Đặc biệt trong tình hình hiện nay, khi Trung Quốc dùng một lực lượng lớn tàu đánh cá hiện đại chèn ép, lấn át lực lượng tàu đánh cá vô cùng thô sơ, nhỏ bé của Việt Nam thì Việt Nam phải quyết tâm, nhanh chóng tìm đối tác, hợp tác đánh bắt cá với các nước tiên tiến như Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga, Mỹ…

Và, như ý kiến tuyệt vời nhất mà tôi đã từng nghe, của Tiến sỹ Nguyễn Thị Hồng Minh, nguyên thứ trưởng Bộ Thủy sản (cũ) là: “Khi các yếu tố nước ngoài, điển hình như Nga, Mỹ… tham gia đầu tư vào khai thác biển Việt Nam đồng nghĩa quyền lợi của họ gắn liền với các ngư trường Việt Nam. Vấn đề biển Đông không còn là vấn đề chỉ của Việt Nam mà còn là lợi ích của nhiều nước khác. Tất nhiên, khi đó, nếu Trung Quốc có những hành xử chạm đến “lợi ích chung” thì họ không khoanh tay đứng nhìn. Dẫu lợi ích có chia đôi, chia ba nhưng về lâu dài, lợi ích về công nghệ, trình độ dân trí, vấn đề an ninh biển Đông cho ngư dân… thì ở cuộc chơi này, Việt Nam vẫn có lợi hơn, nếu như không muốn trắng tay đứng nhìn tàu trọng tải khủng của Trung Quốc tung hoành”.

Tại sao không? Máu chúng ta còn không tiếc thì tiếc gì thua thiệt một vài con cá con tôm?

Đây là sách lược sáng suốt bởi vì nó hợp lý, chính xác.

Một khi kẻ thù đã xuất đầu lộ diện nghênh ngang, không e dè, trắng trợn đe dọa dùng vũ lực thì đã đến lúc Việt Nam phải có những đối sách phù hợp, khôn khéo và quyết liệt, để bảo vệ lợi ích, chủ quyền quốc gia.

Quá mạo hiểm khi đưa tay ra với một kẻ có vũ khí đầy mình, thái độ hung hăng, hiếu chiến.

Lê Ngọc Thống(PNT)

Thứ Tư, 15 tháng 8, 2012

Người Việt cần thức tỉnh


Khi biển Đông luôn vọng về những “âm thanh gây hấn” của Trung Quốc thì lòng yêu nước nồng nàn của người Việt ngày càng được thể hiện rõ ràng. Mỗi khi báo chí đưa tin về vấn đề biển Đông luôn thu hút số lượng người đọc khổng lồ trong và ngoài nước.

Điều đó đặt ra vấn đề hết sức nghiêm túc và cần thiết: báo chí và truyền thông cần làm gì cho người dân hiểu đúng bản chất vấn đề Biển Đông?

Công khai thông tin tranh chấp trên biển Đông đã đem lại những hiệu ứng tích cực.
Công khai thông tin tranh chấp trên biển Đông đã đem lại những hiệu ứng tích cực.

Bài học nào từ truyền thông Mỹ?


Không phải ai cũng từng đến nước Mỹ, không phải ai cũng nói và hiểu được tiếng Anh, nhưng hầu hết mọi người đều biết rằng có một nước Mỹ tồn tại theo cách dễ hình dung nhất. Một đứa trẻ 5 tuổi biết đến Mỹ qua bộ phim hoạt hình Tom và Jerry, chú chuột Mickey… Những học sinh, sinh viên biết đến Mỹ nhờ các kênh truyền hình như CNN, HBO… Còn những người lớn tuổi hơn, họ bàn về tình hình thế giới và chẳng thể bỏ qua một cường quốc như Mỹ.

Thực tế, Trung Quốc cũng đang áp dụng sức mạnh mềm này, khi liên tục tuyên truyền “bôi đen” rằng “Việt Nam chiếm Hoàng Sa, Trường Sa của họ…” Và đa số người dân Trung Quốc đều tin vào luận điệu đó. Chính phủ Trung Quốc được mệnh danh là bậc thầy trong chiêu trò “biến thủ phạm thành nạn nhân”. Một số nhà báo, học giả Trung Quốc viết trên tờ Hoàn Cầu đã vẽ ra một hình ảnh đất nước Việt Nam như một tội đồ, để lừa dối chính nhân dân, quân đội họ và lừa dối cả thế giới”.

Một minh chứng rõ ràng nhất là cuộc chiến 1979 với người Việt Nam, truyền thông Trung Quốc có hàng ngàn bài báo xuyên tạc nhồi nhét vào đầu người Trung Quốc rằng đó là “chiến công oanh liệt của quân giải phóng Trung Quốc phản công quân Việt Nam xâm lược”. Đến giờ phút này, số người hiểu được thực chất cuộc chiến chỉ có 1%.

Dường như Trung Quốc đang cố dùng bộ máy truyền thông do Nhà nước kiểm soát để đưa những thông tin sai lệch về Việt Nam nhằm kích động dân chúng. Liệu Việt Nam có thể học được gì từ bài học truyền thông của Mỹ trong việc truyền bá và nâng cao hình ảnh đất nước, nhất là vấn đề chủ quyền biển Đông hiện nay?

Thức tỉnh


Nếu như trước đây người dân ít chú ý đến những thông tin về Biển Đông, sách báo cũng ít khi tuyên truyền rầm rộ. Thì giờ đây khi nói về vấn đề này đa số người dân Việt Nam đều bày tỏ tình cảm yêu nước của mình. Tuy nhiên, ai cũng hiểu rằng, họ chỉ mới có tình yêu nước nồng nàn mà thiếu sự am hiểu về vấn đề này. Họ cũng bày tỏ khát vọng được tìm hiểu sâu sắc, đầy đủ bản chất về vấn đề Biển Đông.

Liên quan đến vấn đề nhận thức của nhân dân về biển Đông hiện nay, Tiến sĩ Trần Công Trục- Nguyên Trưởng ban Biên giới của Chính phủ khẳng định: “Nhận thức về Biển Đông của người dân Việt mới chỉ được đánh thức còn tỉnh hay chưa, theo tôi là chưa tỉnh”.

Nhà nghiên cứu Trung Quốc Dương Danh Dy, Nguyên Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại Quảng Châu cho rằng: “Chúng ta chưa tuyên truyền bài bản về vấn đề biển Đông nên người dân chưa có điều kiện để hiểu rõ, hiểu sâu vấn đề này. Lòng yêu nước rất đáng quý, đáng trân trọng nhưng cần phải được trang bị hiểu biết về vấn đề Biển Đông một cách đầy đủ, cần hiểu bản chất vấn đề này thì mới có thể đấu tranh hiệu quả cho chủ quyền Tổ quốc”.

“Các tạp chí chuyên môn hiện nay thiếu vắng những bài viết của người Việt. Các du học sinh Việt Nam rất lúng túng khi trao đổi về chủ quyền biển đảo ở biển Đông”. (Tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã)

Đưa thông tin lan tỏa khắp thế giới


Thời gian qua Trung Quốc đã lợi dụng truyền thông như một cỗ máy nói dối để bóp méo sự thật. Trong khi Việt Nam laị chưa khai thác triệt để sức mạnh mềm của truyền thông. Theo đó, các cơ quan ngôn luận cần tập trung truyền tải những thông tin đầy đủ, chính xác về chứng cứ lịch sử, cơ sở pháp lý, các Công ước và luật pháp quốc tế. Từ đó người dân Việt Nam nhận thức rõ ràng việc bảo vệ chủ quyền Biển Đông là sự nghiệp của toàn dân tộc. Khi nắm được lịch sử Biển Đông và hiểu luật pháp quốc tế, người dân sẽ vững tin vào điều đó. Thuận được lòng dân, chúng ta sẽ làm được tất cả. Sự hiểu biết, đoàn kết của nhân dân sẽ tạo nên sức mạnh mà không một thế lực nào có thể phá vỡ được”.

Hơn lúc nào hết, chúng ta nên đẩy mạnh việc tuyên truyền về lòng yêu nước, lịch sử biển Đông trong trường học. Ngoài ra cần cổ vũ các học giả viết, xuất bản, công bố sách, báo về những chứng cứ lịch sử của biển Đông. Không chỉ tuyên truyền bằng tiếng Việt mà bằng ngôn ngữ của nhiều quốc gia khác như tiếng Anh, tiếng Trung Quốc… và đưa lên mạng internet để lan tỏa khắp thế giới. Cho người dân Việt Nam, thế giới và đặc biệt là nhân dân Trung Quốc hiểu rõ hơn về bản chất sự thật.

Bạch Dương - Website Nguyễn Tấn Dũng

Thứ Hai, 6 tháng 8, 2012

Nhố nhăng ‘đường chín đoạn’


Cho đến năm 1945, cái gọi là “đường lưỡi bò” (hay đường chín đoạn) chưa hề xuất hiện. Vậy nó ra đời lúc nào?
Các bản đồ đời nhà Thanh ấn hành từ thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 đều khẳng định điểm cực nam của Trung Quốc chỉ dừng ở phủ Quỳnh Châu tại vĩ tuyến 18,13 độ vĩ bắc. Trong khi quần đảo Hoàng Sa nằm ở vĩ tuyến 17,15 độ vĩ bắc và quần đảo Trường Sa ở từ vĩ tuyến 12 đến 8 độ vĩ bắc. 

Biến thể quái thai 


Phải đến năm 1917, lần đầu tiên trên “Trung Hoa Dân quốc tân khu vực đồ” (1917) quy nạp quần đảo Hoàng Sa bằng cách vẽ thêm một khung vuông phụ trong bản đồ toàn quốc. Chưa dừng lại ở đó, năm 1947, Trung Hoa Dân quốc tiếp tục hành động xâm phạm chủ quyền Việt Nam bằng cách vẽ ra đường 11 đoạn ôm trọn Biển Đông. 
"Đường 11 doạn" năm 1947 và "đường 9 đoạn" năm 2009. Ảnh Tia Sáng
"Đường 11 doạn" năm 1947 và "đường 9 đoạn" năm 2009. Ảnh Tia Sáng

Những diễn biến dồn dập xảy ra trong hai năm 1946-1947 trực tiếp đẩy nhanh các kế hoạch xâm chiếm hai quần đảo quan trọng của Việt Nam trên Biển Đông. Sau khi Nhật đầu hàng quân đồng minh, tháng 2/1946, Quốc dân đảng đã ký với Pháp hiệp ước Trùng Khánh chấm dứt vai trò giải giáp quân Nhật tại Đông Dương. Cuối năm 1946, quân đội Trung Hoa dân quốc đưa bốn tàu chiến do tướng Lâm Tuân dẫn đầu xuôi Biển Đông để đến Hoàng Sa và Trường Sa, mà theo luận điệu hết sức vô lý là “giải giáp tàn quân Nhật”, mặc dù thời gian giải giáp đã hết từ lâu.
Tư liệu do tuần báo Phượng Hoàng (Hong Kong) trong cuộc gặp gỡ những người liên quan đến chuyến đi của Lâm Tuân đang sống ở Đài Loan lại cho biết người vẽ bản đồ “11 đoạn” không phải Lâm Tuân mà chính là giám đốc Sở Phương vực Phó Giác Kim. Ông này đã căn cứ trên những tư liệu sơ sài của Lâm Tuân, Trịnh Tư Duyệt và Tào Hi Mãnh để vẽ bản đồ trên.

Trong cuộc họp ngày 14/4/1947, Bộ Nội chính Trung Hoa dân quốc đã triệu tập hội nghị xác định phạm vi và chủ quyền các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hội nghị quyết định lấy vĩ tuyến 4 độ vĩ bắc, với chót điểm là bãi đá ngầm James ở gần Malaysia làm cực nam của bản đồ “đường 11 đoạn”. Đây chính là tiền thân của “đường lưỡi bò” ngày nay, cái mà Trung Quốc gọi là “đường chữ U” hay “đường 9 đoạn”. Đến đầu năm 1949, chính quyền Quốc dân đảng tháo chạy về Đài Loan, những tưởng đường 11 đoạn đã tiêu tan. Tuy nhiên, lòng tham và mưu đồ “liếm” trọn Biển Đông đã được “kế thừa”.

Theo Thời báo Hoàn Cầu, sau khi đuổi Quốc dân đảng ra khỏi đại lục, năm 1953 Chính phủ CHND Trung Hoa đã... biến “đường 11 đoạn” thành “đường 9 đoạn” nhưng không nêu rõ lý do. “Đường 9 đoạn” này cơ bản giống với “đường 11 đoạn” của Trung Hoa dân quốc. Chỉ có điều là nó tham lam hơn, “liếm” sát Việt Nam, Malaysia và Philippines hơn.

Bắc Kinh tạo ra một biến thể quái thai từ tấm bản đồ của Quốc dân đảng để vẽ ra “đường 9 đoạn” (còn gọi là đường lưỡi bò) rồi ngang nhiên tuyên bố chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam. Sự thay đổi phi lý trong các bản đồ trên là bằng chứng chỉ ra quá trình Trung Quốc “biến không thành có” để thâu tóm các đảo trên Biển Đông.

Chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa đã được Việt Nam xác định


Trên thực tế, ngay từ thế kỷ 17, các nhà nước Việt Nam đã thực sự quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hàng năm các nhà nước phong kiến Việt Nam vẫn cử những đoàn thuyền tuần tra và thu những nguồn lợi từ hai quần đảo này. Trong lúc các bản đồ và tài liệu địa chí Trung Hoa còn chưa đề cập đến hai quần đảo này thì các bản đồ và sách địa chí của Việt Nam đã mô tả tỉ mỉ cả về vị trí và những điều kiện thủy văn và nguồn lợi.

Khi nhận thấy âm mưu xâm chiếm của Trung Quốc và sự manh nha xuất hiện của người Nhật trên tuyến đường biển quan trọng “nối liền giữa Hong Kong và Sài Gòn”, đầu tháng 3/1925, toàn quyền Đông Dương Pasquier đã ra tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc lãnh thổ của Pháp (tức thuộc về An Nam đang là thuộc địa của Pháp lúc bấy giờ).

Sau đó, ngày 13/4/1930, Pháp đã cho tàu La Malicieuse ra Trường Sa để treo quốc kỳ Pháp. Mười ngày sau đó, Chính phủ Pháp đã tuyên bố thực thi chủ quyền trên quần đảo Trường Sa. Trước đó ngày 20/3/1930, toàn quyền Đông Dương đã yêu cầu Bộ thuộc địa Pháp “cần thừa nhận lợi ích của nước Pháp ẩn chứa trong việc thay mặt An Nam thực thi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa”. Sau đó năm 1938-1939, theo Nghị định số 3282 do toàn quyền Đông Dương Brievie ký, Pháp đã triển khai quân binh đến đảo Hoàng Sa xây dựng trạm hải đăng, trạm vô tuyến TFS và trạm khí tượng, song song đó cũng xây dựng thêm một trạm khí tượng khác trên đảo Phú Lâm.

Tháng 3/1933, Pháp đã điều bốn tàu Lamalicieuse, tàu chiến Alerte, hai tàu thủy văn Astrobale và De Lanessan đến Trường Sa ... và một lần nữa xác định chủ quyền.

Trước đó, trong bản ghi chú gửi cho Vụ châu Á đại dương, Bộ Ngoại giao Pháp đã viết: “Việc chiếm đóng quần đảo Trường Sa (Spratley) mà Pháp thực hiện trong hai năm 1931-1932 là nhân danh Hoàng đế An Nam”. Đến năm 1938, Pháp tiếp tục cho xây dựng bia chủ quyền, hải đăng, trạm khí tượng thủy văn và một trạm vô tuyến trên đảo Ba Bình (Itu-Aba). Như vậy, tính từ năm 1930-1938, chính quyền thực dân Pháp đã nhân danh An Nam (Việt Nam lúc bấy giờ) xác lập chủ quyền rõ ràng ở Hoàng Sa và Trường Sa.

Thứ Bảy, 4 tháng 8, 2012

Phải thực thi Luật Biển một cách vững chắc


Luật Biển Việt Nam đã được ban hành, có hiệu lực từ 1-1-2013. Đây là sự khẳng định mạnh mẽ về chủ quyền các vùng biển quốc gia. Tính dân tộc đã được thể hiện ở tầm cao mới qua việc ra được Luật Biển trong bối cảnh tranh chấp biển Đông ngày càng phức tạp. Vấn đề là cần cụ thể hóa “Luật Mẹ” bằng các “Luật con”, thực thi Luật Biển một cách vững chắc, chủ động “mở cửa” hội nhập quốc tể trên biển, góp phần xây dựng Biển Đông thành khu vực biển hoà bình, tăng cường lợi ích quốc gia trên biển.

Việt Nam phải chú trọng nâng cao năng lực để bao quát vùng biển của mình
Việt Nam phải chú trọng nâng cao năng lực để bao quát vùng biển của mình

Ban hành Luật Biển Việt Nam là bước đi quan trọng

Khi mới thành lập Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam (năm 2008), hệ thống chính sách quản lý tổng hợp biển gần như con số không. Rất khó cho các nhà quản lý nếu không có một “Luật Mẹ” để làm cơ sở ban hành các đạo luật nhỏ hơn hoặc các văn bản chính sách dưới luật. Rất mừng là Luật Biển Việt Nam – đạo “Luật Mẹ” đã được ban hành. Luật Biển Việt Nam có một giá trị pháp lý to lớn, như một “UNCLOS con”- tức Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, ở cấp quốc gia.
Luật Biển Việt Nam gồm 7 chương, 55 điều. Điều 1, chương 1 của Luật Biển Việt Nam nêu rõ phạm vi điều chỉnh của luật là đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam; hoạt động trong vùng biển Việt Nam; phát triển kinh tế biển, quản lý và bảo vệ biển, đảo.
Việc khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong Luật là sự tiếp nối lập trường nhất quán của Việt Nam trong vấn đề này, đã được nêu rõ trong Nghị quyết năm 1994 của Quốc hội Việt Nam phê chuẩn Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982 và Luật Biên giới quốc gia năm 2003.
Chương 2 gồm 14 điều quy định về việc xác định đường cơ sở, chế độ pháp lý của các vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam (nội thủy, lãnh hải) và các vùng biển thuộc quyền chủ quyền của ta (vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa), đảo, quần đảo và chế độ pháp lý của đảo.
Chương 3 gồm có 20 điều quy định về nội hàm của việc đi qua không gây hại, nghĩa vụ khi thực hiện quyền này, quy định tuyến hàng hải và phân luồng giao thông. Trong chương này, đề cập đến 13 hành vi bị coi là gây phương hại đến hòa bình, quốc phòng, an ninh khi tàu thuyền nước ngoài đi qua lãnh hải Việt Nam (Khoản 3, Điều 23)…
Chương 4 có 5 điều quy định các nguyên tắc phát triển biển, các ngành kinh tế biển ưu tiên phát triển, vấn đề quy hoạch phát triển kinh tế biển, khuyến khích, ưu đãi đầu tư phát triển kinh tế biển trên các đảo và hoạt động trên biển.
Chương 5 có 3 điều quy định về lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển; nhiệm vụ và phạm vi trách nhiệm tuần tra, kiểm soát trên biển.
Chương 6 có 4 điều quy định về dẫn giải và địa điểm xử lý vi phạm, biện pháp bảo đảm tố tụng, xử lý vi phạm, biện pháp đối với đối tượng là người nước ngoài… nhằm đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng, đúng pháp luật giữa các cơ quan có trách nhiệm xử lý vi phạm Luật Biển Việt Nam.
Chương 7 ghi rõ Luật Biển Việt Nam có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2013. Chính phủ sẽ ban hành những quy định hướng dẫn thi hành các điều khoản được giao ở trong Luật.
Điểm thành công của Luật Biển Việt Nam là đã chi tiết hóa được các quy định của Công ước LHQ về Luật Biển 1982 thành các điều khoản để có thể áp dụng trên các vùng biển của Việt Nam. Quan trọng nhất là Luật này xác định được các vùng biển và quy chế pháp lý cho từng vùng.
Luật Biển là tiền đề, hành lang pháp lý quan trọng nhưng để đưa Luật vào cuộc sống Việt Nam cần lực lượng chấp pháp – trong khi ở thời điểm hiện tại, sức mạnh của lực lượng này của chúng ta chưa thể bao quát hết 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế được quy định trong Luật. Vì thế, Việt Nam phải chú trọng nâng cao năng lực để bao quát vùng biển của mình. Đồng thời phải phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, kết hợp chỉ đạo điều hành thể hiện tính kiên quyết thực thi pháp luật, Luật mới đi vào cuộc sống.

Cụ thể hóa “Luật Mẹ” bằng các “Luật con”

Mừng vì đã có “Luật Mẹ,” song Việt Nam tiếp tục phải ra những đạo luật nhỏ hơn để thực hiện triệt để quyền làm chủ cũng như tiến ra biển một cách vững chắc, bởi đơn giản là chủ quyền biển đảo chỉ được khẳng định tốt khi chúng ta khai thác có hiệu quả và kiểm soát được các vùng biển của mình ngoài hiện trường.
Xây dựng khung pháp lý để quản lý biển và hải đảo là câu chuyện dài, không thể hoàn thiện một sớm một chiều nhưng phải làm càng sớm càng tốt. Hiện đã có không ít văn bản chính sách và pháp luật về quản lý nhà nước theo ngành (thủy sản, hàng hải, dầu khí, du lịch, các cơ quan chấp pháp trên biển khác…) và chắc chắn để thống nhất quản lý nhà nước về biển, phải ban hành hệ thống chính sách quản lý biển tổng hợp và nguyên tắc quản lý biển theo không gian, cùng với việc điều chỉnh ít nhiều các văn bản quản lý biển theo ngành nói trên cho phù hợp, bám sát tình hình thực tế, có như thế mới bảo đảm được lợi ích quốc gia, hài hòa lợi ích ngành và người lao động. Trước mắt cần đẩy nhanh việc xây dựng Luật Tài nguyên và Môi trường biển để cụ thể hóa vấn đề quản lý khai thác, sử dụng biển, đảo và bảo vệ môi trường biển đã ghi trong Luật Biển Việt Nam. Các luật tiếp theo nên xây dựng là: Luật Quản lý tổng hợp vùng bờ biển, Luật về Khu bảo tồn biển, Luật Sử dụng hải đảo (vì trong biển bạc mỗi đảo là một “thỏi vàng đen” và là một “cột mốc chủ quyền” quốc gia trên biển), Luật Bảo vệ môi trường biển,…
Nước ta có các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia: nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Chúng thuộc về các mảng không gian biển khơi, vịnh, vùng biển ven bờ (vùng ven bờ) và nhỏ hơn là các mảng không gian của các vũng biển ven bờ (bay),…với các đặc trưng và tiềm năng phát triển khác nhau. Từ cách tiếp cận quản lý tổng hợp để tiến tới thống nhất quản lý nhà nước về biển và hải đảo, phải coi biển và các mảng không gian trong nó là hệ thống tài nguyên chia sẻ, sử dụng cho nhiều ngành (đa ngành). Cho nên quy hoạch không gian biển được xem là một nội dung trong quy hoạch khai thác sử dụng biển, đảo (không gian biển). Trên cơ sở quy hoạch sử dụng không gian như vậy, sẽ tiến hành xác định “chế độ pháp lý” cho các mảng không gian được phân chia cho các ngành, người sử dụng để bảo đảm mức độ tuân thủ quy hoạch cao nhất, để giảm thiểu mâu thuẫn lợi ích trong sử dụng đa ngành và tối ưu hóa lợi ích kinh tế, trong khi vẫn bảo toàn được chức năng sinh thái và bảo vệ môi trường theo hướng phát triển bền vững ở vùng quy hoạch.
Thêm nữa, giá trị của không gian biển không chỉ là con tôm, con cá và nguồn tài nguyên không tái tạo như dầu khí… mà biển còn là không gian sinh tồn của dân tộc ta.

Luật Biển là điểm tựa vững chắc để tiến ra biển

Vùng biển khơi rộng lớn ở phía ngoài là không gian phát triển các hoạt động hàng hải và khai thác dầu khí ở thềm lục địa, đồng thời sẽ là nơi diễn ra các hoạt động hợp tác và hội nhập kinh tế biển sôi động hơn khi nước ta là quốc gia hội nhập quốc tế, đáp ứng khá tốt yêu cầu với tư cách là thành viên của Liên Hợp Quốc, thành viên của UNCLOS 1982 thành viên WTO… Ta cần tiếp tục điều chỉnh cơ chế, chính sách để sẵn sàng hội nhập quốc tế hiệu quả trong lĩnh vực biển vì dấu ấn hội nhập và hợp tác quốc tế đối với biển vẫn còn mờ.
Trong bối cảnh nước ta đã chính thức bước vào “sân chơi quốc tế”, cũng phải chuẩn bị đội hình và công nghệ để sớm tham gia hưởng lợi từ không gian đại dương, “lấy đại dương nuôi đất liền”. Chính sách biển của nước ta một mặt, phải có tác động điều chỉnh hành vi phát triển của các ngành kinh tế biển, tạo ra một trật tự pháp lý ổn định trên vùng biển quốc gia; mặt khác, phải hỗ trợ khả năng hội nhập quốc tế, trước hết phải phù hợp với tinh thần của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982.
Đảm bảo độc lập, chủ quyền là yêu cầu tiên quyết nhưng như thế không có nghĩa là “đóng cửa biển”! Khi đã có Luật Biển, nếu có được chính sách tạo ra được điểm hài hòa về lợi ích, chúng ta nhất định sẽ có những đối tác tốt, đối tác mạnh, giúp chúng ta làm giàu. Chúng ta cần những cơ chế chính sách tốt, khôn ngoan, khơi dậy được những tiềm năng sẵn có chứ không phải chỉ “dựa vào tiền”. Ta có cả một vùng biển rộng với vị trí chiến lược, nguồn nhân lực dồi dào…, phải thực sự hội nhập, giống như khi bạn đứng ngoài nhìn dòng giao thông đông đúc kia rất ngại nhưng khi hòa vào dòng lưu thông đó, ta cũng sẽ thông minh ra, tìm ra cách đi riêng. Mà lợi ích trên Biển Đông thì không chỉ của các nước bên bờ Biển Đông!
Nguyễn Chu Hồi

Thứ Hai, 30 tháng 7, 2012

Truyền thông Trung Quốc nói gì về bản đồ cổ?


Ngày 26/7 kênh tin video của tờ báo điện tử SINA xuất bản tại Trung Quốc phát đi một đoạn phóng sự về việc Tiến sĩ Mai Hồng hiến tặng Bảo tàng Quốc gia tấm bản đồ cổ Trung Quốc từ thời nhà Thanh chứng minh rất rõ 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không thuộc chủ quyền Trung Quốc. Động thái này sẽ cung cấp cho độc giả Trung Quốc những thông tin đa chiều, và họ hoàn toàn có thể kiểm chứng được những tấm bản đồ này và thấy được sự bịa đặt trắng trợn của giới cầm quyền với âm mưu độc chiếm biển Đông và 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam.

Vì sao Trung Quốc 'ngang nhiên' ở Biển Đông?


Những diễn biến gần đây ở khu vực tranh chấp Biển Đông cho thấy Trung Quốc đang theo đuổi một “chuỗi phản ứng quyết liệt” trong cách tiếp cận ở vùng biển này.

Tác giả bài viết, Stephanie Kleine-Ahlbrandt, là giám đốc dự án Đông Bắc Á của Nhóm nghiên cứu khủng hoảng quốc tế. 
Bắc Kinh đã phản ứng quyết liệt trong một phép thử diễn ra ở bãi cạn Scarborough tranh chấp với Philippines từ đầu tháng 4. Nhân việc Philippines dùng tàu chiến trong vụ việc liên quan tới tàu cá, Trung Quốc đã tận dụng cơ hội để khẳng định chủ quyền của họ với bãi cạn bằng cách triển khai các tàu thực thi pháp luật phi quân sự và cho phép chúng neo đậu lâu dài trong khu vực. 

Bắc Kinh không ngại ngần dùng áp lực kinh tế với Manila khi thắt chặt quy định nhập khẩu hoa quả nhiệt đới, gây tổn thất khoảng 34 triệu USD cho Philippines.

Bắc Kinh cũng công bố hàng loạt quy định hàng hải mới bao trùm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Khi những quy định ấy còn chưa ráo mực, Trung Quốc tuyên bố thành lập cái gọi là “thành phố Tam Sa” nhằm thiết lập phạm vi quản lý với một khu vực rộng lớn kể cả những nơi tranh chấp với Việt Nam và Philippines. Đầu tuần này, Bắc Kinh còn cho phép bộ Tư lệnh quân sự Quảng Châu thành lập một đơn vị đồn trú ở “Tam Sa”. 

Cũng là một phần của hàng loạt hành động gây hấn, cuối tháng 6, Bắc Kinh quyết định cho phép một trong những tập đoàn dầu khí nhà nước, CNOOC, mời các công ty năng lượng nước ngoài bỏ thầu những dự án cùng thăm dò ở nhiều phần trên Biển Đông thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. 

Khi Trung Quốc ngày càng lấn lướt trong cuộc chơi, người ta hy vọng các nước ASEAN sẽ thống nhất quan điểm về vấn đề tranh chấp. Nhưng sự thật thì ngược lại. Tại cuộc gặp các ngoại trưởng khu vực diễn ra đầu tháng ở Phnom Penh, Trung Quốc đã tận dụng cơ hội làm yếu đi sự đoàn kết của tổ chức này. Họ dùng ảnh hưởng khiến Campuchia, chủ tịch luân phiên ASEAN, ngăn chặn cuộc thảo luận thực sự có ý nghĩa về tranh chấp ở Biển Đông, thậm chí khiến lần đầu tiên trong lịch sử 45 năm, ASEAN không ra được tuyên bố chung. 

Tàu khu trục số hiệu 560 của Trung Quốc đã mắc cạn trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế của Philippines.
Tàu khu trục số hiệu 560 của Trung Quốc đã mắc cạn trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Ảnh: Getty Images

Ngay khi cuộc gặp ở Phnom Penh kết thúc đáng thất vọng, thì hàng loạt báo chí đã đưa tin về việc một tàu khu trục hải quân Trung Quốc mắc cạn gần bãi Trăng Khuyết - chỉ cách đảo chính Palawan của Philippines 110km. Bộ Quốc phòng Trung Quốc tuyên bố, con tàu chỉ thực hiện nhiệm vụ tuần tra thông thường mặc dù nơi mà nó mắc cạn hoàn toàn nằm trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Tàu khu trục này có khả năng là một phần các chuyến tuần tra theo như mô tả của người phát ngôn quân đội Trung Quốc là “sẵn sàng chiến đấu” ở Biển Đông.

Điều tàu quân sự tới vùng nước tranh chấp cũng có thể là một dấu hiệu cho thấy, Trung Quốc đã thay đổi từ việc sử dụng tàu thực thi pháp luật để phản ứng với những sự cố gần đây kiểu như ở bãi cạn Scarborough. 

Cách tiếp cận trắng trợn hơn của Trung Quốc có thể được giải thích một phần bằng thực tế là, họ không hài lòng với những gì thu được từ sự thay đổi chiến thuật năm 2011 - đặt trọng tâm hơn vào ngoại giao biển tiếp theo những hành động quả quyết. 

Chính trị trong nước cũng góp phần vào thái độ của Trung Quốc ở Biển Đông. Trước đó, khi công chúng hoang mang vì bê bối Bạc Hy Lai, thì sự cố ở bãi cạn Scarborough cung cấp cơ hội tiện lợi nhằm tạo ra sự phân tâm, đánh lạc hướng dư luận. Còn giờ đây, Trung Quốc một lần nữa không ngại ngần “khoe cơ bắp” trên biển, một phần cũng bởi thời gian chuyển giao lãnh đạo đã tới rất gần.

Tuy nhiên, giới lãnh đạo Trung Quốc nên cẩn thận vì những gì họ mong muốn. Một cách tiếp cận cứng rắn có thể dễ phản tác dụng. Nó khiến các nước trong khu vực lo ngại và tìm mọi cách “rào giậu” phòng thủ, tự bảo vệ trước một hàng xóm lớn hung hăng. Hơn thế nữa, các tranh chấp lãnh thổ thường đánh thẳng vào cảm giác chủ nghĩa dân tộc - công chúng nổi giận có thể gây áp lực với chính phủ trong những quyết định ngoại giao. Chính phủ Trung Quốc có thể tự mình mắc kẹt ở vị trí giữa sức ép khu vực, quốc tế và gánh nặng chủ nghĩa dân tộc trong nước. 

Thứ Năm, 26 tháng 7, 2012

Những tiếng nói "bồ câu" ở Trung Quốc quá yếu ớt


"Truyền thông Trung Quốc cứ ra rả rằng Việt Nam chiếm Hoàng Sa, Trường Sa, chiếm nguồn dầu khí của họ. Trung Quốc là bậc thầy của kiểu tuyên truyền "biến thủ phạm thành nạn nhân", học giả Dương Danh Dy phân tích.

- Theo ông, Biển Đông có ý nghĩa thế nào trong bàn cờ chiến lược của Trung Quốc?

- Biển Đông với Trung Quốc không chỉ là tham vọng bá quyền, mà là vấn đề sống còn. 30 năm nay, Trung Quốc đã khai thác đất liền cạn kiệt, giờ phải hướng ra biển. Nhưng thử nhìn xem, phía bắc, phía đông thì vướng Nhật Bản, Nga, Hàn Quốc, đều là các nước có quan điểm rất cứng rắn. Chỉ còn phía nam là Biển Đông, nơi các nước yếu thế hơn.

Chính vì điều này, gần đây, Trung Quốc đã đẩy mạnh các hoạt động nhằm chiếm hữu biển Đông trên thực tế. Song, điều này càng lộ ra điểm yếu của Trung Quốc rằng họ đuối lý và đang bị cô lập trên thế giới. Tứ phương đông, tây, nam, bắc, thử hỏi có ai đang là bạn của Trung Quốc? Chính các trang mạng của nước này từng băn khoăn đặt ra tình huống, Trung Quốc có mấy người bạn nếu chiến tranh xảy ra.

- Từng nhiều năm nghiên cứu Trung Quốc, ông đánh giá thế nào về những động thái gần đây của truyền thông nước này?

- Một điều tra gần đây trên mạng Hoàn Cầu của Trung Quốc đã đặt vấn đề về việc dùng vũ lực giải quyết vấn đề biển Đông và có tới 92% ý kiến tán thành. Thậm chí, có bài còn nêu ra cách đánh như thế nào. Thời báo Hoàn Cầu là con đẻ của Nhân dân Nhật báo. Tân Hoa xã có trang Sina.com, mạng quân sự có mạng phụ là Trung Quân võng... Các mạng phụ của những cơ quan truyền thông chính thống Trung Quốc không từ điều gì khi nói về Việt Nam. Rõ ràng họ đã được "bật đèn xanh", làm người dân Trung Quốc nghĩ rằng Việt Nam là kẻ thù.

Tuyên truyền chính thống của Trung Quốc về Việt Nam rất xấu, có thể nói là "bôi đen" Việt Nam suốt hàng chục năm nay. Tôi vào mạng Trung Quốc, hầu như ngày nào cũng có bài nói xấu, xuyên tạc về Việt Nam. Họ cứ ra rả rằng Việt Nam chiếm Hoàng Sa, Trường Sa, chiếm nguồn dầu khí của Trung Quốc... Trong khi đó, chúng ta tuyên truyền thông tin vào Trung Quốc rất kém.

- Tuy nhiên, đối lập với trường phái "diều hâu", một số học giả Trung Quốc cũng đã lên tiếng phản bác về yêu sách của nước này trên Biển Đông. Ông nghĩ sao?

- Thực ra, cái gọi là những học giả "bồ câu" chỉ là một nhóm rất nhỏ, không đáng kể ở Trung Quốc, có thể kể ra những cái tên như Lý Lệnh Hoa, Thịnh Hồng, Chu Phương. Tôi cho rằng, chúng ta không nên vội lấy làm mừng về những điều mà các học giả này phát biểu, dù những tiếng nói đó là rất quý. Chúng ta chưa nên coi đây như một dòng đối lập, đủ sức đương đầu với quan điểm chủ đạo của Trung Quốc về yêu sách chủ quyền, lãnh thổ. Qua theo dõi, tôi thấy tiếng nói của cộng đồng học giả có quan điểm "bồ câu" ít có ảnh hưởng đối với dư luận Trung Quốc.

- Người dân Trung Quốc, đặc biệt lớp trí thức trẻ có điều kiện truy cập Internet, đọc báo nước ngoài, tại sao họ không thấy sự vô lý của yêu sách đường lưỡi bò?

- Trong chuyện lãnh thổ, theo tôi biết, người Trung Quốc nói chung chấp nhận luận điệu của chính phủ. Hơn nữa, gần đây, những sự kiện liên quan tới Biển Đông, truyền thông Trung Quốc lại sử dụng cách tuyên truyền "biến thủ phạm thành nạn nhân". Họ là bậc thầy trong việc này. Điểm lại tất cả những tranh cãi từ xưa tới nay, giữa Trung Quốc với Liên Xô, Mỹ, Ấn Độ..., bao giờ Trung Quốc cũng nhận mình là phải, bao giờ Trung Quốc cũng đổ hết lỗi cho đối tượng. Với họ, ai trái ý đều là không đúng, là phi nghĩa.

- Trong bài phỏng vấn mới đây trên VnExpress, Giáo sư Carlyle Thayer, chuyên gia về Đông Nam Á cho rằng Trung Quốc đang cố ý tăng áp lực với Việt Nam. Theo ông, Việt Nam cần làm gì lúc này để bảo vệ chủ quyền biển, đảo?

- Tôi cho rằng, cần phải nhìn nhận rõ thế và lực của Việt Nam hiện giờ đã khác. Trước đây, chúng ta bị cấm vận, kinh tế trì trệ nhưng hiện nay GDP đã 100 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người hơn 1.000 USD. Việt Nam chưa giàu nhưng thoát giai đoạn đói kém, chúng ta đã có tiền trang bị máy bay, tàu ngầm. Quan hệ với cộng đồng quốc tế của Việt Nam đang rất tốt, nhiều nước ủng hộ ta trước sự bá quyền của Trung Quốc.

Nếu Việt Nam vạch trần thái độ, hành xử bá quyền của Trung Quốc với cộng đồng quốc tế thì tôi tin rằng Trung Quốc rất lo sợ. Trong thời buổi win - win (cùng thắng) muốn được lợi thì phải quan tâm đến lợi ích của người khác. Các nước ASEAN khác nhau về trình độ kinh tế, thể chế chính trị, văn hóa... tóm lại là khác nhau rất nhiều về quyền lợi. Vì thế Việt Nam muốn đạt được lợi ích của mình thì phải làm nhiều hơn nữa chứ đừng vội đòi hỏi người ta phải vì mình. Myanmar, Campuchia, Thái Lan có quyền lợi gì ở Biển Đông đâu mà yêu cầu người ta theo ý mình? Phải cố gắng góp phần làm tăng điểm tương đồng, đóng góp vào lợi ích chung thì mới có thể đạt được ý muốn của mình.

Theo VNEXPRESS

Thứ Tư, 25 tháng 7, 2012

Vấn đề biển Đông: Trong họa có phúc


Những hành động của Trung Quốc trên Biển Đông vừa qua đang tạo ra ba kết quả ngoài ý muốn của Bắc Kinh: lá bài tẩy bị lật, các dân tộc thức tỉnh và cộng đồng quốc tế càng nâng cao cảnh giác!

Đảo Trường Sa
Chỉ vài giờ sau khi ASEAN kêu gọi sự kiềm chế và giải pháp hoà bình cho tranh chấp Biển Đông, Trung Quốc ngay lập tức đã tái khẳng định chủ quyền đối với các quần đảo tranh chấp. Bắc Kinh tiếp tục di chuyển tàu tới bãi Chữ Thập và đưa các tàu đổ bộ đến Trường Sa. Nhưng trên nền các động thái tưởng như cũ này đã bừng phát lên một niềm hy vọng mới, hy vọng của tỉnh thức và thôi thúc phải hành động...

Ngày 22/7, báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng ở Trung Quốc đã loan tin, cử tri thuộc ba quần đảo mà Trung Quốc gọi là thành phố Tam Sa đã đi bỏ phiếu bầu Hội đồng Nhân dân. Trên thực tế, đấy là các khu vực nằm ngay trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Trước đây một tháng, chính quyền tỉnh Khánh Hòa và thành phố Đà Nẵng đã lên tiếng phản đối quyết định của Trung Quốc lập thành phố Tam Sa là xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Từ ảo thành thực


Những động thái này xảy ra chỉ một ngày sau khi người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm 20/7 nói rằng "Bắc Kinh sẵn sàng hợp tác với ASEAN để thực hiện Tuyên bố về cách ứng xử của các bên DOC", cũng như "cùng ASEAN tham vấn để hoàn chỉnh Bộ Qui tắc ứng xử của các nước trên Biển Đông COC". Là nước đã ký kết Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS), vậy mà Trung Quốc vẫn liên tục khẳng định UNCLOS "không phải là một hiệp ước quốc tế để giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ của các quốc gia, cũng không thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo cho việc giải quyết các tranh chấp".

Dư luận mấy tuần qua tiếp tục quan tâm tới động thái của Trung Quốc: mời thầu tại 9 lô dầu khí nằm trong khu vực đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam. Hành động ngang ngược này được coi như một dấu hiệu quan trọng trong bước chuyển về chiến lược hàng hải của Bắc Kinh. Từ đe dọa ảo tiến tới đe dọa thực!

Trước vụ cắt cáp tàu Bình Minh năm ngoái, Trung Quốc chỉ gây hấn lẻ tẻ đối với các hoạt động thăm dò dầu khí trên vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam. Từ vụ tàu Bình Minh cũng như vụ mời thầu lần này, Trung Quốc đã tiến một bước dài, nhằm phủ đầu bất kỳ quốc gia nào quan tâm đến các lô dầu trên thềm lục địa Việt Nam.
Từ ảo thành thực, Trung Quốc muốn thế giới quen dần với "đường lưỡi bò" mà đến ngay biên tập viên Tân Hoa xã Chu Phương, người nổi tiếng có quan điểm thẳng thắn trong làng báo Trung Quốc, đã nhiều lần phản đối và yêu cầu xoá bỏ cái gọi là "thành phố Tam Sa" mà Bắc Kinh vừa dựng lên. Trong một bài viết, ông Chu Phương nhấn mạnh: "Từ nhỏ chúng ta đã được nhìn thấy tấm bản đồ Nam Hải (Biển Đông). Một đường biên giới đứt đoạn rất thô màu hồng đưa toàn bộ Nam Hải vào bản đồ Trung Quốc. Ngày nay chúng ta biết sự thực không phải như vậy! Đường biên giới quốc gia ấy không những các nước láng giềng và quốc tế không công nhận, mà ngay các học giả Trung Quốc cũng không lý giải nổi".

Bất chấp những sự thật hiển nhiên như thế, những người có trách nhiệm ở Bắc Kinh vẫn "chống lưng" cho những luận điệu sô-vanh nước lớn, bất chấp cả lẽ phải và luật pháp quốc tế mà Trung Quốc từng đặt bút ký, có văn bản còn chưa ráo mực. Những bài viết mới đây nhất trên "Hoàn cầu Thời báo" thi nhau vu cáo Việt Nam, biến nạn nhân là các ngư dân hiền lành làm ăn trên ngư trường truyền thống bao đời nay thành tội đồ. Những bài viết ấy xúc phạm nghiêm trọng đến tình hữu nghị Việt - Hoa, đến mức một tờ báo đã phải lên tiếng, viết thế thì làm gì còn hình ảnh của một Trung Quốc trỗi dậy "trong hòa bình" (!)

Sôi động trên chính trường khu vực


Cuối tuần qua, Indonesia đã chứng tỏ là một nước đàn anh, là thành viên có trách nhiệm của ASEAN. Với 36 giờ ngoại giao con thoi của ngoại trưởng Natalegawa, chúng ta thấy việc ASEAN cần phải đoàn kết lại thành một khối quan trọng như thế nào. ASEAN đã gượng dậy sau cú vấp ngã ở Phnom Penh. Rõ ràng, sau hội nghị ngoại trưởng lần thứ 45, ASEAN chao đảo như con tàu sau bão lớn. Nhưng thay vì tìm một cái vịnh để trú, ASEAN đang ráo riết củng cố lại thủy thủ đoàn để đón những cơn gió giật có thể còn mạnh hơn!

Tất nhiên, đây chưa phải là một sự thay đổi chính sách của nước chủ nhà. Đây chỉ là sự thay đổi về chiến thuật, còn về chiến lược, do người khác "cầm cái", làm sao thay đổi được!

Một ASEAN từng chia rẽ...

Việc ASEAN "đạt lập trường chung về Biển Đông" có những ý nghĩa nhất định. Thứ nhất, cả toàn khối thấy được tính nghiêm trọng của vấn đề. Hãy nhớ lại hình ảnh mà báo chí quốc tế mô tả sau tuần ASEAN ở Phnom Penh: Từ ngày chào đời, chưa bao giờ ASEAN mất uy tín như thế.
Thứ hai, nếu toàn khối bị tê liệt do một chủ tịch luân phiên gây ra, thì một số nguyên tắc căn bản của ASEAN có thể bị/hoặc sẽ được thay đổi. Nghĩa là các ngoại trưởng có thể ra một Thông cáo chung khi chủ tịch luân phiên hành động một cách thiếu trách nhiệm. Điều này chẳng có chủ tịch nào muốn.

Thứ ba, "đạo diễn lớn" sau cánh gà điều chỉnh lại kịch bản, vì sau khi "chạy" một số "đoạn", cả đạo diễn lẫn nhân vật chính sợ sẽ bị "cháy" kịch bản nếu cứ đẩy ASEAN đến bờ vực của tan rã.

Và Việt Nam đã đóng vai trò tích cực trong những nỗ lực hàn gắn nói trên. Lập trường của Việt Nam rất nhất quán và được cả quốc tế lẫn ASEAN đánh giá cao. Tất cả 6 nguyên tắc mà ngoại trưởng Indonesia đưa ra cũng là những nguyên tắc "nền", những nguyên tắc căn bản mà Việt Nam đã, đang theo đuổi bao lâu nay. Bản thân ngoại trưởng Natalegawa đã cám ơn Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh về sự đóng góp tích cực của Việt Nam sau các cuộc tham vấn tại Hà Nội. Dư luận quốc tế, với mối thiện cảm vốn có, đánh giá cao lập trường của Việt Nam trong tuần hội nghị ASEAN ở Phnom Penh...

Ý dân là quyết định...


Trước tình thế mới đầy hiểm nguy như thế, trong lần gặp gỡ cử tri Hà Nội mới đây, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ mối tương quan giữa việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ với bảo vệ chế độ và giữ gìn môi trường hòa bình. Tổng bí thư khẳng định một tấc đất cũng phải giữ!

Trả lời cử tri Sài Gòn, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nêu rõ, lập trường trước sau như một của Việt Nam là bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Theo Chủ tịch nước, việc này không chỉ bằng nhận thức mà phải bằng hành động, tức là phải xác lập cho được chủ quyền biển đảo!

Trả lời chất vấn trước Quốc hội trước đó, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã bày tỏ quyết tâm bảo vệ biển đảo. Thủ tướng cũng hoan nghênh mọi biểu hiện yêu nước của người dân, đặc biệt là những tình cảm thiêng liêng đối với việc bảo vệ biển đảo.

Có nhiều cách để giải quyết các cuộc gây hấn trên Biển Đông. Về chính trị, Trung Quốc không tuân thủ thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Hoa. Về quân sự, phải cố gắng không để xẩy ra chiến tranh, nhưng phải chuẩn bị sức mạnh để đối phó khi cần. Ngoại giao như một khả năng thực tiễn, là nguồn lực chủ yếu được khai triển để tạo ra "sức mạnh mềm". Biển Đông đang nổi sóng trong một cuộc tranh chấp quyết liệt, nó không còn là vùng biển thái bình. Phải nhớ lời Trần Hưng Đạo "khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc..." Cần nâng cao bài học của cha ông, coi trọng liên kết khu vực để đối phó với nguy cơ xâm lược. Ngày nay, phải làm cho dư luận trong nước và dư luận Trung Quốc hiểu rằng, thời đại đã vượt qua tâm thức "đế quốc bá quyền", lấy "pháo hạm" làm luật chơi trong thiên hạ.

Những hành động của Trung Quốc trên Biển Đông vừa qua đang tạo ra ba kết quả ngoài ý muốn của Bắc Kinh: lá bài tẩy bị lật, các dân tộc thức tỉnh và cộng đồng quốc tế càng nâng cao cảnh giác!

HOÀNG THẮNG - KHẮC MAI (TUẦN VIỆT NAM)