Trang

Hiển thị các bài đăng có nhãn Hoàng Nham. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hoàng Nham. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 27 tháng 6, 2012

‘Sự ngạo mạn nguy hiểm của Trung Quốc’


Đưa tàu trở lại bãi cạn Scarborough, mời thầu dầu khí ở ngay trong thềm lục địa Việt Nam… cung cách ứng xử của Trung Quốc đang ngày càng nguy hiểm và ngạo mạn.

Bài viết “Sự ngạo mạn nguy hiểm của Trung Quốc” (China’s Dangerous Arrogance) đăng trên The Diplomat cho rằng việc Trung Quốc tìm cách độc chiếm vùng biển châu Á và đe dọa quyền tự do hàng hải quốc tế đang trở thành vấn đề không chỉ đối với các nước láng giềng.

Theo bài viết, thái độ quyết đoán của Trung Quốc về ngoại giao và quân sự rõ ràng được thúc đẩy bởi sự tự tin thái quá và khiến cho người khác cảm thấy vô cùng lo ngại, đặc biệt về tự do hàng hải.

Thái độ tự tin thái quá của Trung Quốc thường được thể hiện qua những tuyên bố của Hồng Lỗi, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc. Ảnh THX
Thái độ tự tin thái quá của Trung Quốc thường được thể hiện qua những tuyên bố của Hồng Lỗi, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc. Ảnh THX

Khi Trung Quốc có nhiều ảnh hưởng, nước này càng trở nên quyết đoán hơn trong lĩnh vực ngoại giao. Thái độ quyết đoán này ngày càng gia tăng cùng với sức mạnh hải quân của Trung Quốc và khiến cho người ta tự hỏi liệu nó có biến thành ngạo mạn, đặc biệt ở Biển Đông.
Sự kết hợp giữa hoạt động hải quân ráo riết và các tuyên bố chủ quyền biển đảo của Trung Quốc cho thấy chỉ dấu đáng báo động: sự quyết đoán của Trung Quốc về đòi hỏi chủ quyền đang tăng lên nhanh chóng cùng với sự giàu có và nhận thức về quyền lực. Trung Quốc đang đi ngược với ý nguyện của cộng đồng thế giới, khi không chỉ muốn biến tây Thái Bình Dương thành “vùng cấm” đối với các thế lực bên ngoài mà còn coi vùng biển này là một phần trong phạm vi ảnh hưởng của nước này.

Điều này thể hiện rất rõ ràng trong thái độ của Trung Quốc đối với Biển Đông. Bắc Kinh đã từng ám chỉ Biển Đông là “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc, giống như các khu tự trị Tây Tạng, Tân Cương và vùng lãnh thổ Đài Loan. Trên thực tế, Trung Quốc đã dẫm đạp khái niệm chung của cộng đồng quốc tế về tự do hàng hải, hàng không… trong một thế giới toàn cầu hóa. Trung Quốc đã thách thức các nguyên tắc của cộng đồng quốc tế về luật pháp, tự do đi lại và đặt mình ở vào vị thế đối đầu với Mỹ.

Đối với các khu vực nhất định, Trung Quốc hoặc độc quyền thống trị hoặc nói với các nước khác “đừng có can thiệp vào”. Trên thực thế, theo quan điểm của Trung Quốc, những khu vực này “không phải là của chung”. Trung Quốc coi Biển Đông là “lợi ích cốt lõi” nhằm hạn chế cộng đồng thế giới thực thi những quyền chính đáng của mình theo luật pháp quốc tế.

Bắc Kinh tùy tiện tuyên bố chủ quyền đối với 80% diện tích Biển Đông và dành cho mình cái quyền kiểm soát các hoạt động hàng hải và nghiên cứu ở vùng biển này, chứ không chỉ kiểm soát đánh cá và các nguồn tài nguyên dưới đáy biển trong phạm vi cái gọi là các Khu vực độc quyền kinh tế (Exclusive Economic Zones) của Trung Quốc. Nếu không bị phản đối, thái độ quyết đoán biến thành ngạo mạn của Trung Quốc sẽ dẫn tới nhiều rủi ro về luật pháp vì luật pháp quốc tế dựa trên những chuẩn mực đã được các nước công nhận.

Trung Quốc coi việc Mỹ hoạt động cái gọi là bên trong chuỗi đảo thứ nhất của nước này là xâm phạm chủ quyền. Bắc Kinh có cách diễn giải “ngược đời” về Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) cũng như thẩm quyền của nước này trong phạm vi các Khu vực độc quyền kinh tế EZZ, kể cả ở các khu vực đang có tranh chấp.

Sự kết hợp giữa chiến lược pháp lý với lực lượng hải quân của Trung Quốc cho thấy không giống như các bên tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông khác, Trung Quốc hậu thuẫn tuyên bố chủ quyền của họ bằng sức mạnh quân sự.

Vì sao Trung Quốc chưa dám bước qua vạch đỏ Biển Đông?


Trong tình hình hiện nay, chúng ta chưa thấy có dấu hiệu gì và cũng không có hy vọng nào về vấn đề Biển Đông có thể được giải quyết tận gốc. Nếu bộ quy tắc ứng xử (COC) giữa ASEAN với Trung Quốc đạt được trong năm nay thì cũng chỉ hy vọng tạo ra một nguyên trạng nào đó.
Nhưng có thể Trung Quốc không bao giờ chấp nhận COC bởi họ không muốn duy trì một nguyên trạng như vậy.
Trung Quốc đang tìm mọi cách để nhằm thỏa mãn tham vọng chiếm trọn Biển Đông của mình. Nhưng, liệu có tồn tại những “vạch đỏ” nguy hiểm mà Trung Quốc chưa thể, chưa muốn vượt qua?
Tại sao Trung Quốc chưa hành động tiếp theo để hợp lý hóa khu tranh chấp đã chiếm được?
Hành động tranh chấp trực tiếp trên bãi cạn Scarborough giữa Trung Quốc và Philippines đã kết thúc từ lâu. Có thể nói, Trung Quốc đã hoàn toàn làm chủ khi Philippines đã rút hết lực lượng của mình ra khỏi khu vực tranh chấp này trong khi 30 tàu cá Trung Quốc được sự bảo vệ của 2 tàu Hải giám, ung dung đánh bắt hải sản dù có lệnh cấm của chính họ ban ra và Philippines chấp nhận.
Với kết quả này, không những giới quân sự “diều hâu” mà các học giả Trung Quốc cũng hiếu chiến, hân hoan chẳng kém. Tất cả, theo họ đại loại là “Trung Quốc cần sớm phái tàu chiến ra bãi cạn Scarborough đồng thời xây dựng công trình quân sự và đóng quân tại khu vực này thì đó mới là “chiếm đóng thực tế”.
Sau đó, giới chức Trung Quốc sẽ ban hành văn bản pháp luật để tạo ra cái gọi là “khu an toàn” có bán kính 500 đến 600 hải lý lấy tâm từ Scarborough làm “căn cứ” xử phạt tàu thuyền bất cứ nước nào “vi phạm”…
Xét về tình thế cuộc tranh chấp thì Philippines không còn gì để nói, nhưng tại sao Bắc Kinh không dấn thêm bước nữa để hợp lý hóa chính thức thành lãnh thổ của mình như những đề nghị của thế lực “diều hâu”?
Tại sao Bắc Kinh không dấn thêm bước nữa để hợp lý hóa chính thức thành lãnh thổ của mình như những đề nghị của thế lực “diều hâu”? (Ảnh: Người dân Philippines biểu tình phản đối Trung Quốc)
Tại sao Bắc Kinh không dấn thêm bước nữa để hợp lý hóa chính thức thành lãnh thổ của mình như những đề nghị của thế lực “diều hâu”? (Ảnh: Người dân Philippines biểu tình phản đối Trung Quốc)
Rõ ràng là, nếu ai đó cho rằng Trung Quốc trong sự kiện Scarborough chỉ là thử sự đoàn kết trong khối ASEAN, thử độ tin cậy của hiệp ước Mỹ - Philippines thì chưa chính xác.
Trung Quốc không cần thử cũng quá rõ nội tình đoàn kết của ASEAN ra sao; Trung Quốc đã quá biết giới hạn trong Hiệp ước phòng thủ chung của Mỹ và Philippin ở đâu và Mỹ sẽ hành động ở mức độ nào …
Trước hết với ASEAN. Trung Quốc đã thành công khi dùng chính trị và kinh tế để chia rẽ ASEAN. Nguyên tắc “không can thiệp” khiến ASEAN trở nên trung lập, có lợi cho Trung Quốc trong vụ Scarborough. Nhưng nếu Trung Quốc dùng hành động quân sự tấn công Philippines đánh chiếm bãi cạn Scarborough hoặc có hành động xâm lược như phái “diều hâu” chủ trương ở trên thì chính Trung Quốc phá vỡ nguyên tắc “không can thiệp”, lập tức ASEAN là một phía chống lại Trung Quốc.
Việc các nước trong khối ASEAN ngả theo Mỹ, với Trung Quốc không đáng sợ bằng việc họ liên minh kinh tế, quân sự với nhau.
Đây là vạch đỏ nguy hiểm mà Bắc Kinh có đủ khôn ngoan không vượt qua khi chưa cần thiết.
Với Philippines, Trung Quốc thừa biết, hành động đến giới hạn nào thì Mỹ sẽ can thiệp. Mỹ chỉ can thiệp khi lợi ích cốt lõi của Mỹ bị xâm hại, tức tự do hàng hải bị ngăn chặn. Mỹ sẽ không can thiệp vào các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, đó không phải là lợi ích cốt lõi của nước Mỹ. Trung Quốc chưa làm gì chứng tỏ họ sẽ đóng các tuyến đường biển qua lại của các tàu Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, hoặc nước nào khác thì đương nhiên Mỹ không dại gì nhúng tay vào.
Dù “kịch bản” Scarborough, Trung Quốc đã thu được những kết quả mong muốn, nhưng hậu quả cũng đem lại cho Trung Quốc ngoài ý muốn không ngờ. Philippines bỗng cứng rắn, mạnh mẽ hẳn lên.
Họ tăng cường sức mạnh quân sự, ngoài Mỹ ra lại được sự giúp đỡ của Nhật Bản, Hàn Quốc và Ôxtrâylia khiến Philippines không còn là một mình, họ tự tin “chơi tới cùng” với Trung Quốc, đặt Trung Quốc vào thế bị động “tiến thoái lưỡng nan”.
Việc Mỹ đang nhăm nhe viện trợ cho Philippines hệ thống radar cảnh giới và máy bay chiến đấu hiện đại không ngoài mục đích là cảnh báo Trung Quốc chớ bước qua vạch đỏ nguy hiểm.
Nếu Trung Quốc dấn thêm bước nữa như chủ trương của thế lực “diều hâu”, lập tức Philippines sẽ được trang bị đầy đủ vũ khí hiện đại từ Mỹ, Nhật Bản… và họ sẽ không để yên cho Trung Quốc ngang nhiên xâm chiếm bãi cạn Scarborough.
Trong bối cảnh khu vực hiện nay, Trung Quốc có đủ khôn ngoan để không “đem xe đổi tốt”, làm khó cho mình khi bước qua vạch đỏ nguy hiểm đó.
Đó là lý do tại sao đến giờ Trung Quốc vẫn chưa biến vụ Scarborough “thành việc đã rồi” mà luôn tồn tại sự căng thẳng, nếu như không nói là đang leo thang vì Philippines không chịu khuất phục. Họ vừa tìm sự hỗ trợ sức mạnh từ bên ngoài, vừa kiên quyết đưa vụ tranh chấp ra quốc tế phán xét…Đây là điều mà Trung Quốc không muốn và bế tắc trong giải quyết.
Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi Trung Quốc, ngoài việc phải kiểm soát được tình hình, tránh “lau súng bị cướp cò” hoặc dồn ép Philippines đến đường cùng còn phải bằng mọi cách như đe dọa quân sự, trừng phạt kinh tế…nhằm ngăn chặn, làm tê liệt sự phản kháng của Philippines, ít nhất làm cho Philippines không sử dụng biện pháp quân sự để có lợi thế khi đàm phán.

Đoạn cuối cho “kịch bản” Scarborough

Trên khu vực tranh chấp, hiện nay Philippines chỉ để lại 1 tàu canh chừng Trung Quốc (có thực hiện chủ trương như thế lực hiếu chiến đề xuất không), trong khi Trung Quốc vẫn còn 2 tàu Hải giám canh chừng cho khoảng 30 tàu cá của họ khai thác.
Trung Quốc không bao giờ rút lui bởi bất kỳ lý do nào từ Philippines vì Trung Quốc là nước lớn trong khi Philippines chỉ là “con muỗi”. Trung Quốc chỉ rút hết lực lượng khi mùa bão đến gần vì sợ Trời chứ không phải Philippines.
Đây là vụ tranh chấp song phương và trong thời gian này, bằng con đường ngoại giao Trung Quốc và Philippines sẽ giải quyết bằng hòa bình.
Gác tranh chấp cùng khai thác là chủ trương có thể được cả đôi bên chấp nhận?

Thứ Tư, 20 tháng 6, 2012

UNCLOS, công cụ giải quyết tranh chấp Biển Đông


Tình hình tranh chấp Biển Đông hai tuần lễ qua trở nên căng thẳng hơn khi hàng trăm tàu đánh cá của Trung Quốc, được sự hỗ trợ của các tàu hải giám tập trung ở bãi cạn Scarborough mà Trung Quốc gọi là đảo Hoàng Nham, như một sự thách thức nhằm khẳng định chủ quyền vùng biển này. Phản ứng của Philippines là kêu gọi đồng minh chiến lược Hoa Kỳ hỗ trợ thêm về vũ khí, tàu chiến để đối phó.

Gần đây Trung Quốc cũng đã cho trực thăng bay sát các tàu đánh cá Việt Nam trên vùng biển thuộc chủ quyền của chúng ta như một sự đe dọa. Các vụ bắt ngư dân Việt Nam đánh cá tại một số ngư trường truyền thống ngày càng nghiêm trọng đang làm nóng lên các vùng biển đang tranh chấp chủ quyền.
Cũng vào thời điểm này, Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ đã tổ chức buổi điều trần về Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển. Phát biểu tại cuộc điều trần, ba quan chức cao cấp gồm Ngoại trưởng Hillary Clinton, Bộ trưởng Quốc phòng Panetta và Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, tướng Dempsey, đã trình bày những lợi ích kinh tế và an ninh của việc phê chuẩn công ước này cũng như những thiệt hại của việc chậm phê chuẩn gây ra.
Ngay sau đó, báo chí Trung Quốc cho rằng một trong những lý do khiến Mỹ có thể tham gia công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển sau một thời gian đứng bên lề là nhằm "tìm chỗ dựa về pháp lý để can thiệp vào tình hình Biển Đông, tranh quyền chủ đạo ở châu Á - Thái Bình Dương".
Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (United Nations Convention on Law of the Sea - UNCLOS) được ký kết ngày 10-12-1982, nên còn gọi UNCLOS 1982, và có hiệu lực từ ngày 16-11-1994, đến nay đã có 157 quốc gia và Cộng đồng châu Âu (EC) tham gia UNCLOS.
Hàng không mẫu hạm USS Essex của Mỹ trong vịnh Subic (Philippines)
Hàng không mẫu hạm USS Essex của Mỹ trong vịnh Subic (Philippines)
UNCLOS gồm 17 phần với 320 điều khoản, 9 phụ lục với hơn 100 điều khoản và 4 nghị quyết kèm theo. Đây là một bộ các quy định về sử dụng biển và đại dương trên thế giới. Sau Hiến chương Liên Hiệp Quốc, UNCLOS là văn kiện pháp lý đa phương quan trọng nhất trong lịch sử của Liên Hiệp Quốc, với việc thiết lập một cách cụ thể và rõ ràng khái niệm, quy chế cũng như phạm vi các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia của các nước.

Những nội dung quan trọng

Những điều khoản quan trọng nhất của UNCLOS quy định về việc thiết lập các giới hạn, giao thông đường biển, trạng thái biển đảo, và các chế độ quá cảnh, các vùng đặc quyền kinh tế, quyền tài phán thềm lục địa, khai khoáng lòng biển sâu, chính sách khai thác, bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học, và dàn xếp các tranh chấp.
Công ước đặt ra giới hạn cho nhiều khu vực, tính từ một đường cơ sở được định nghĩa kỹ càng (thông thường, một đường biển cơ sở chạy theo đường bờ biển khi thủy triều xuống, nhưng khi đường bờ biển bị thụt sâu, có đảo ven bờ, hoặc đường bờ biển rất không ổn định, có thể sử dụng các đường thẳng làm đường cơ sở), bao gồm các khu vực dưới đây:

Nội thủy

Bao phủ tất cả vùng biển và đường thủy ở bên trong đường cơ sở (phía đất liền). Tại đây, quốc gia ven biển được tự do áp đặt luật, kiểm soát việc sử dụng, và sử dụng mọi tài nguyên. Các tàu thuyền nước ngoài không có quyền đi lại tự do trong các vùng nội thủy.
Tàu tuần dương Philippines kiểm tra một tàu đánh cá Trung Quốc đang hoạt động trong vùng biển của Philippines
Tàu tuần dương Philippines kiểm tra một tàu đánh cá Trung Quốc đang hoạt động trong vùng biển của Philippines

Lãnh hải

Vùng nằm ngoài đường cơ sở có chiều ngang 12 hải lý. Tại đây, quốc gia ven biển được quyền tự do đặt luật, kiểm soát việc sử dụng, và sử dụng mọi tài nguyên. Các tàu thuyền nước ngoài được quyền qua lại không gây hại" mà không cần xin phép nước chủ. Đánh cá, làm ô nhiễm, dùng vũ khí, và do thám không được xếp vào dạng "không gây hại". Nước chủ cũng có thể tạm thời cấm việc "qua lại không gây hại" này tại một số vùng trong lãnh hải của mình khi cần bảo vệ an ninh.

Vùng đặc quyền kinh tế

Rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Trong vùng này, quốc gia ven biển được hưởng độc quyền trong việc khai thác đối với tất cả các tài nguyên thiên nhiên. Khái niệm vùng đặc quyền kinh tế được đưa ra để ngừng các cuộc xung đột về quyền dầu mỏ cũng đã trở nên một vấn đề quan trọng. Trong vùng đặc quyền kinh tế, nước ngoài có quyền tự do đi lại bằng đường thủy và đường không, tuân theo sự kiểm soát của quốc gia ven biển. Nước ngoài cũng có thể đặt các đường ống ngầm và cáp ngầm.

Thềm lục địa

Được định nghĩa là vành đai mở rộng của lãnh thổ đất cho tới mép lục địa (continental margin), hoặc 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Thềm lục địa của một quốc gia có thể kéo ra ngoài 200 hải lý cho đến mép tự nhiên của lục địa, nhưng không được vượt quá 350 hải lý, không được vượt ra ngoài đường đẳng sâu 2.500m một khoảng cách quá 100 hải lý. Tại đây, nước chủ có độc quyền khai thác khoáng sản và các nguyên liệu không phải sinh vật sống.
Đảo Trường Sa Lớn của Việt Nam
Đảo Trường Sa Lớn của Việt Nam
Bên cạnh các điều khoản định nghĩa các ranh giới trên biển, công ước còn thiết lập các nghĩa vụ tổng quát cho việc bảo vệ môi trường biển và bảo vệ quyền tự do nghiên cứu khoa học trên biển.
Công ước cũng tạo ra một cơ chế pháp lý mới cho việc kiểm soát khai thác tài nguyên khoáng sản tại các lòng biển sâu nằm ngoài thẩm quyền quốc gia, được thực hiện qua Ủy ban Đáy biển Quốc tế (International Seabed Authority).
Các nước không có biển được quyền có đường ra biển mà không bị đánh thuế giao thông bởi các nước trên tuyến đường nối với biển đó.

Việt Nam và UNCLOS

Việt Nam là một trong 130 nước bỏ phiếu thông qua và sau đó cùng 118 nước khác ký UNCLOS năm 1982 tại Vịnh Montego (Jamaica). Ngày 23-6-1994, Quốc hội Việt Nam đã chính thức phê chuẩn và trở thành thành viên thứ 63 của UNCLOS.
Công ước của Liên Hiệp Quốc về luật biển là công cụ pháp lý quan trọng để Việt Nam bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông. Nằm ven Biển Đông và là một trong những quốc gia có bờ biển dài trong khu vực (khoảng 3.260km), theo các quy định của UNCLOS, Việt Nam được mở rộng chủ quyền, các quyền thuộc chủ quyền và quyền tài phán của mình ra các vùng biển và thềm lục địa rộng khoảng 1 triệu km².
Là thành viên UNCLOS, Việt Nam có nghĩa vụ phải giải quyết các tranh chấp theo các quy định của UNCLOS. Cụ thể, Việt Nam có quyền xác định các vùng biển và thềm lục địa theo UNCLOS nhưng đồng thời cũng có nghĩa vụ tiến hành phân định các vùng biển và thềm lục địa ở những khu vực chồng lấn với các nước láng giềng.
Ngư dân Việt Nam đang hoạt động ở ngư trường truyền thống Trường Sa
Ngư dân Việt Nam đang hoạt động ở ngư trường truyền thống Trường Sa
Để thực hiện quyền này của UNCLOS, Việt Nam xây dựng Báo cáo Quốc gia trình Ủy ban Ranh giới ngoài thềm lục địa của Liên Hiệp Quốc để bảo đảm quyền lợi của quốc gia, bảo vệ quyền của Việt Nam đối với thềm lục địa vượt quá 200 hải lý; đồng thời có cơ sở khoa học để đưa ra các quy định về ranh giới ngoài vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam.
Đầu tháng 5-2009, Việt Nam nộp báo cáo chung với Malaysia về khu vực thềm lục địa mở rộng ở phía Nam và báo cáo riêng của Việt Nam về khu vực thềm lục địa ở khu vực phía Bắc. Quan điểm pháp lý cơ bản trong Báo cáo quốc gia của Việt Nam là khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với các vùng biển và thềm lục địa theo quy định của UNCLOS...
Thời gian qua, đặc biệt sau khi UNCLOS có hiệu lực, Việt Nam đã giải quyết được một loạt vấn đề về phân định biển với các quốc gia láng giềng. Việt Nam đã phân định ranh giới biển với Thái Lan năm 1997; phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc bộ với Trung Quốc năm 2000; phân định ranh giới thềm lục địa với Indonesia năm 2003. Ngoài ra, Việt Nam cũng đã thỏa thuận tiến hành hợp tác khai thác chung thềm lục địa chồng lấn với Malaysia năm 1992; vùng nước lịch sử với Campuchia năm 1982.
Trong khuôn khổ Diễn đàn khu vực ASEAN 17 diễn ra tại Hà Nội năm 2010, chúng ta đã kêu gọi các bên giải quyết tranh chấp qua các văn bản ký kết giữa ASEAN và Trung Quốc trên cơ sở của UNCLOS và DOC, hướng tới xây dựng một văn bản có tính ràng buộc pháp lý là COC (Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông) cũng dựa trên cơ sở của UNCLOS.
Trong phiên họp toàn thể tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới về Đông Á họp tại Bangkok hôm 1-6-2012, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho rằng các bên liên quan trong tranh chấp Biển Đông phải tìm giải pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là phải tuân thủ DOC và công ước quốc tế về Luật Biển UNCLOS.
Hiện nay COC đang trong thời kỳ đối thoại và tranh luận để đi đến một sự đồng thuận. Mục tiêu mà ASEAN nhắm đến là sẽ có COC vào năm 2012 này nhân kỷ niệm 10 năm ra đời DOC.
Nhưng điều này xem ra không dễ dàng khi thái độ của Trung Quốc chưa cho thấy họ mặn mà với một văn kiện ràng buộc pháp lý trong việc giải quyết tranh chấp Biển Đông.

Thứ Ba, 19 tháng 6, 2012

Trung Quốc rút tàu cá khỏi bãi cạn trên Biển Đông


Bắc Kinh vừa rút hết các tàu cá ở bên trong bãi cạn Scarborough/Hoàng Nham với lý do thời tiết không ổn định, sau khi Philippines cũng có động thái tương tự.
Trung Quốc đưa tàu cứu hộ biển Nan Hai Jiu 115 tới Scarborough
Trung Quốc đưa tàu cứu hộ biển Nan Hai Jiu 115 tới Scarborough

Hãng tin Xinhua cho hay Trung tâm Cứu hộ và Nghiên cứu Hải dương Trung Quốc vừa điều một tàu cứu hộ biển tới các vùng nước quanh bãi cạn tranh chấp với Philippines. Con tàu mang tên Nan Hai Jiu 115 sẽ hỗ trợ các tàu cá Trung Quốc trong việc rời khỏi Scarborough/Hoàng Nham trong điều kiện biển động.
Trên trang web của đại sứ quán Trung Quốc tại Manila, một thông báo của cơ quan cứu hộ thuộc Bộ Giao thông Trung Quốc đề ngày 17/6 cũng nhấn mạnh thông tin tương tự, trang Phil Star của Philippines đưa tin.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi hôm qua cho biết Bắc Kinh sẽ tiếp tục duy trì quyền tài phán và sự đề phòng đối với các khu vực quanh bãi sạn Scarborough/Hoàng Nham. Ông Lỗi đưa ra phát biểu này trong một cuộc họp báo thường kỳ khi được yêu cầu bình luận về việc phía Philippines rút các tàu chính phủ khỏi những vùng nước quanh bãi cạn tranh chấp.
Bộ Ngoại giao Philippines hôm qua cho hay việc Trung Quốc tuyên bố rút các tàu cá là phù hợp với thỏa thuận đưa tất cả các tàu của cả hai bên ra khỏi Scarborough/Hoàng Nham. Tuy nhiên, phát ngôn viên ngoại giao Philippines, Raul Hernandez cho biết Manila vẫn sẽ theo dõi việc rút tàu của phía Trung Quốc.
Tổng thống Philippines, Benigno Aquino trước đó ra lệnh đưa một tàu tuần duyên và một tàu khảo sát của Cục Nghề cá và Các Nguồn lợi Biển về đất liền để tránh trận siêu bão có tên quốc tế là Guchol. Ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario cho biết Manila sẽ đánh giá lại tình hình sau khi thời tiết thuận lợi hơn.
Chính phủ Philippines cũng tuyên bố sẵn sàng giúp các ngư dân Trung Quốc rời bãi cạn Scarborough/Hoàng Nham nếu họ gặp nguy hiểm vì thời tiết bất ổn. Ngược lại, phía Trung Quốc đánh giá cao quyết định rút tàu của Philippines và cho rằng điều này sẽ giúp làm hạ nhiệt căng thẳng giữa hai bên.
Căng thẳng ngoại giao Manila - Bắc Kinh bắt đầu từ ngày 8/4, khi Philippines phát hiện một số tàu cá của Trung Quốc tại bãi cạn cách đảo lớn Luzon của Philippines khoảng 230 km về phía tây và thuộc Biển Đông. Soái hạm BRP Gregorio del Pilar của Philippines được cử đến nhưng bị hai tàu hải giám của Trung Quốc ngăn chặn việc bắt giữ các ngư dân nước này.
Cả Philippines và Trung Quốc cùng tuyên bố chủ quyền đối với bãi cạn không có người sinh sống, đồng thời liên tục điều động các tàu tới đây. Căng thẳng được đẩy lên cao với hàng loạt tuyên bố và động thái của cả hai phía trong hơn hai tháng qua.

Thứ Hai, 18 tháng 6, 2012

Philippines sẽ đưa tranh chấp Scarborough ra tòa


Trong bối cảnh Philippines và Trung Quốc chưa giải quyết được căng thẳng tại bãi cạn Scarborough trên biển Đông, Manila khẳng định sẽ đưa vụ việc ra Tòa án quốc tế về luật Biển (ITLOS).

Tờ Philippines Daily Inquirer hôm qua (14/6) dẫn lời Ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario nhấn mạnh đến sự cần thiết phải có trung gian quốc tế để giải quyết tranh chấp, hướng tới giải pháp hòa bình và bền vững.

Theo ông, lựa chọn này được nhiều đối tác khuyến khích nhằm xoa dịu căng thẳng, phù hợp với luật pháp quốc tế. Tuy nhiên hồi cuối tháng 4, Trung Quốc đã bác bỏ đề nghị của Philippines đưa hồ sơ Scarborough ra trước ITLOS, có trụ sở tại thành phố Hamburg của Đức.

Cũng trong ngày 16.6, Ngoại trưởng del Rosario tiếp người đồng cấp Myanmar U Wunna Maung Lwin tại Manila. Theo AFP, trong cuộc gặp, ông del Rosario đã đề cập căng thẳng ở Scarborough và thảo luận với ông Lwin về các biện pháp giải quyết tranh chấp.

Ngoài ra, hai bên cũng thảo luận về vấn đề Bộ quy tắc về ứng xử ở biển Đông (COC). Mới đây, các quan chức cấp cao ASEAN đã hoàn tất dự thảo các điểm chính của bộ quy tắc để trình lên lãnh đạo các nước.

Thứ Tư, 6 tháng 6, 2012

Trung Quốc sáng tác lịch sử để chiếm Biển Đông


Khi không có chứng cứ địa lý, người Trung Quốc “viết lại lịch sử” để hậu thuẫn cho những đòi hỏi chủ quyền phi lý ở Biển Đông.

Hành động này không chỉ khiến cho những người trong cuộc mà còn khiến cho giới học giả nước ngoài cũng cảm thấy “chướng tai, gai mắt”.

Báo Mỹ: TQ sáng tác lịch sử để chiếm Biển Đông
Báo Mỹ: TQ sáng tác lịch sử để chiếm Biển Đông

Trong bài “China’s Invented History” đăng trên tờ The Wall Street Journal ngày 5/6, nhà báo Philip Bowring viết rằng Bắc Kinh đang bịa đặt lịch sử để biện minh cho những đòi hỏi bành trướng ở những vùng biển tranh chấp.

Cuộc xung đột giữa Phillippines và Trung Quốc về Scarborough dường như chỉ là một tranh chấp nhỏ đối với một bãi đá ngầm không có người ở, giữa biển cả mênh mông. Nhưng cuộc tranh chấp này lại cực kỳ quan trọng đối với các mối quan hệ trong tương lai của khu vực bởi vì nó bộc lộ quan điểm ngoan cố của Trung Quốc là lịch sử của các nước khác vốn đường ranh giới chiếm tới 2/3 chu vi của Biển Đông là phi lý. Chỉ có lịch sử do người Trung Quốc viết và được Bắc Kinh diễn giải mới là đúng đắn.

Trường hợp tuyên bố chủ quyền của Philippines đối với bãi đá ngầm Scarborough được chủ yếu trình bày dưới góc độ địa lý học. Scarborough mà phía Philippines gọi là Panatag Shoal trong khi Trung Quốc gọi là đảo Hoàng Nham là một bãi ngầm ngoài khơi cách bờ biển Luzon, đảo lớn nhất trong quần đảo Philippines 130 hải lý.
Scarborough nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển, vùng đặc quyền kinh tế của Philippines rộng 200 hải lý tính từ bờ biển Luzon. Trong khi đó Scarborough cách thềm lục địa Trung Quốc 300 hải lý và cách đảo Đài Loan 300 hải lý.

Bắc Kinh tìm mọi cách phủ nhận những thực tế địa lý của bãi đá ngầm Scarborough và dựa vào những bịa đặt lịch sử để áp dụng cho mọi đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc đối với hầu hết Biển Đông. Đó là lý do tại sao Trung Quốc không chỉ mâu thuẫn với Philippines mà còn với các quốc gia khác có liên quan đến Biển Đông.

Bản đồ chín đoạn (hay còn gọi là "đường lưỡi bò") khét tiếng xác định chủ quyền của Trung Quốc trùm lên các khu vực đặc quyền kinh tế 200 hải lý trên Biển Đông của cả Malaysia, Philippines, Việt Nam, Brunei và sát với vùng biển Natuna được đánh giá rất giàu tiềm năng khí đốt của Indonesia.

Trong trường hợp bãi đá ngầm Scarborough, Bộ Ngoại giao Trung Quốc dẫn “bằng chứng lịch sử” trong bản đồ Trung Quốc hồi thế kỷ 13, khi Trung Quốc đang bị người Mông Cổ thống trị. Tấm bản đồ này xuất phát từ một chuyến đi của một tàu của Nhà Nguyên thời đó. Lập luận người Trung Quốc là “người đầu tiên” đi lại trên Biển Đông là cực kỳ phi lý.

Đoàn thủy thủ Trung Quốc là những người đến sau ở Biển Đông, chứ nói gì đến hoạt động thương mại trên Ấn Độ Dương. Lịch sử đi biển của khu vực Biển Đông bắt đầu sớm nhất từ thiên niên kỷ đầu tiên và là lịch sử đi biển của tổ tiên những người Malaysia, Philippines và Việt Nam.

Khi những người Trung Quốc cổ đại muốn đến khu vực Sumatra và sau đó đến Sri Lanka, họ phải đi trên các tàu của người Malay (Mã Lai). Điều này không có gì đáng ngạc nhiên vì người Malay (tổ tiên của người Indonesia ngày nay) từng chiếm lĩnh Madagascar, hòn đảo lớn thứ ba thế giới. Họ đã vượt qua Ấn Độ Dương từ hơn 1000 năm trước, sớm hơn rất nhiều chuyến đi của đô đốc Trịnh Hòa nhà Minh hồi thế kỷ 15.

Khả năng vượt biển của người Malay sau này không bằng người Nam Ấn và người Arập, nhưng họ vẫn là những người đi biển hàng đầu ở Đông Nam Á cho đến khi thực dân châu Âu thống trị khu vực này.

Những người Chăm nói ngôn ngữ Malay và theo đạo Hindu ở miền Trung Việt Nam đã thống trị hoạt động thương mại trên Biển Đông, cho đến khi họ bị người Việt chinh phục vào thời điểm các thương nhân châu Âu bắt đầu tìm đến châu Á.

Hoạt động thương mại của Vương quốc Champa và đảo Luzon đã có từ rất lâu trước khi người Trung Quốc vẽ tấm bản đồ hồi thế kỷ 13.

Bãi đá Scarborough không chỉ nằm gần bờ biển Luzon, Philippines mà còn nằm trên tuyến hàng hải trực tiếp từ vịnh Manila đến các cảng biển của người Chăm (Việt Nam) hồi đó là Hội An, Quy Nhơn – vốn khá quen thuộc đối với các thủy thủ người Malay cổ đại

Một yếu tố bất hợp lý khác trong đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc đối với bãi đá ngầm Scarborough là dựa vào Hiệp ước Paris năm 1898. Hiệp ước này chuyển giao chủ quyền của Tây Ban Nha đối với quần đảo Philippines cho Mỹ, vẽ đường thẳng trên bản đồ và để bãi đá Scarborough bên ngoài đường kinh tuyến.

Trung Quốc hiện bám lấy thỏa thuận giữa hai cường quốc nước ngoài thống trị Philippines - hoàn toàn không đếm xỉa đến lợi ích của Philippines – để tuyên bố rằng Manila không có chủ quyền đối với Scarborough.

Trớ trêu là Trung Quốc lại phản đối “các điều ước quốc tế bất bình đẳng” do thực dân phương Tây đưa ra như trường hợp đường ranh giới McMahon phân chia biên giới giữa Ấn Độ và Tây Tạng. Điều đó có nghĩa là Việt Nam hoàn toàn có đủ căn cứ để tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa bởi vì người Pháp trước đây khi chiếm đóng Việt Nam đã từng tuyên bố chủ quyền đối với các quần đảo này và Việt Nam ngày nay kế thừa tuyên bố chủ quyền đó của người Pháp.

Trung Quốc luôn khẳng định Philippines là không hợp lệ. Nói cách khác, Trung Quốc đang sử dụng thực tế Philippines bị nước ngoài thống trị làm cơ sở cho tuyên bố chủ quyền của họ.

Manila muốn giải quyết tranh chấp theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển, nhưng Bắc Kinh cho rằng tuyên bố chủ quyền mà Trung Hoa dân quốc (chế độ đã bị họ đánh đuổi khỏi Hoa lục) đưa ra năm 1932 không bị ràng buộc bởi Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển.

Nhà báo Philip Bowring tái khẳng định Trung Quốc đang ra sức khẳng định chủ quyền đối với Biển Đông bằng cách viết lại lịch sử mà không hề xem xét yếu tố địa lý.

Thứ Tư, 30 tháng 5, 2012

"Biển Đông không phải là thùng thuốc súng"


Trung Quốc không có ý định tìm kiếm xung đột trên Biển Đông. Trên thực tế, điều này được thấy qua cách nước này đã “dịu giọng” với Philippines trong tranh chấp ở Scarborough/Hoàng Nham thời gian gần đây.

Liệu có xảy ra chiến tranh tại Biển Đông?
Liệu có xảy ra chiến tranh tại Biển Đông?

Dưới đây là bài phân tích của Allen Carlson, phó giáo sư Khoa chính phủ, Đại học Cornell (thuộc hệ thống Ivy League, 8 trường đại học lâu đời và chất lượng hàng đầu của Mỹ) ở New York và Xu Xin, giám đốc Chương trình nghiên cứu Trung Quốc và châu Á Thái Bình Dương của Đại học Cornell.

Trong suốt nhiều tuần qua, thái độ đầy quả quyết của Trung Quốc đối với Philippines về Scarborough/Hoàng Nham trên Biển Đông đã gây kinh ngạc ở châu Á và cả bên ngoài khu vực này. Nếu xét về tình hình căng thẳng trong khu vực, lo ngại về khả năng căng thẳng dẫn đến đóng băng mối quan hệ giữa hai nước là hoàn toàn có cơ sở.

Tuy nhiên, ngoài cái vẻ bề nổi đó ra, có rất ít bằng chứng cho thấy Bắc Kinh đang thực sự theo đuổi tích cực một kết cục như thế. Ngược lại, thậm chí là ở Biển Đông, khu vực mà nhiều người cho rằng đã “chín muồi” cho một cuộc xung đột, vẫn có vài lý do để lạc quan.

Rõ ràng là Bắc Kinh đã khởi động chiến dịch dùng các biện pháp cứng rắn hơn đối với Manila. Tuy nhiên, mục đích của những động thái đó không phải là để khiêu khích xung đột quân sự, mà là nhằm gây áp lực để Philippines đàm phán với Trung Quốc về tranh chấp lãnh thổ. Nhưng cũng phải nói rõ, Bắc Kinh hoàn toàn không hề tỏ ý từ bỏ tuyên bố chủ quyền của mình tại khu vực. Chắc chắn là sẽ không. Sẽ là ngây thơ và sai lầm khi nghĩ vậy.

Kể từ khi xảy ra vụ xung đột quân sự trực tiếp, mặc dù khá nhỏ, cuối cùng giữa Trung Quốc và Philippines trên vùng biển này, gần 2 thập niên trôi qua. Ngoài ra, trong suốt một thời gian khá “yên ả”, Trung Quốc đã ký Tuyên bố ứng xử của các bên trên Biển Đông vào năm 2002, quy định Trung Quốc và các bên ký kết khác chỉ dùng biện pháp hòa bình để giải quyết khác biệt. Khi những diễn biến mới đây được đặt cạnh nhau, với thái độ trước đó của Trung Quốc, có thể thấy xu hướng chung trong cách tiếp cận của Bắc Kinh đối với khu vực theo hướng hợp tác hơn là xung đột.

Mặc dù nhiều nhà quan sát cho rằng thỏa thuận 2002 chỉ là “thùng rỗng” nhưng ngay cả những người chỉ trích cũng thừa nhận Trung Quốc chưa trực tiếp vi phạm bất kỳ khía cạnh nào của thỏa thuận. Song điều đó không có nghĩa là Bắc Kinh sẽ không bao giờ vi phạm và tất cả mọi thứ đều tốt đẹp ở Biển Đông. Nó nhắc chúng ta thấy vấn đề hiện nay ở khu vực vẫn chứa đựng nhiều bằng chứng ổn định hơn bất định.

Bắc Kinh chắc chắn chỉ đưa ra các biện pháp mạnh hơn nếu ban lãnh đạo cảm thấy họ bị khiêu khích trực tiếp. Bất chấp leo thang âm ỉ gần đây ở châu Á, vẫn rất khó tìm thấy bất kỳ chỉ dấu nào của một mối đe dọa như thế. Thiếu một chất xúc tác này, Trung Quốc sẽ không vứt bỏ cam kết đã đưa ra ở Biển Đông mà ủng hộ dùng vũ lực trực tiếp để tuyên bố chủ quyền đối với những lãnh thổ tranh chấp.

Đặc biệt, đã có dấu hiệu “dịu giọng” hơn trong cách tiếp cận của Trung Quốc ở Biển Đông. Ví dụ, chiến dịch chống Philippines của báo chí Trung Quốc không còn “ồ ạt” như nhiều tuần trước. Bắc Kinh đã giảm nhẹ nhấn mạnh tới những cảnh báo mà họ đưa ra về sự kiên nhẫn có giới hạn và các nhân tố khác. Thay vào đó hàng loạt bài bình luận nổi bật đã được đăng tải trên các báo Trung Quốc, cảnh báo chiến tranh ở Biển Đông sẽ mang lợi cho Philippines nhiều hơn.

Rộng hơn, có hai nhân tố khác làm giảm khả năng leo thang xung đột. Thứ nhất, một số nhân vật ở Trung Quốc đã có cảm giác cách tiếp cận đối với Biển Đông của Trung Quốc hiện nay không còn hiệu quả và đáng tin cậy nữa. Cùng với đó là hàng loạt kêu gọi bắt đầu nổi lên, cho rằng phải có nỗ lực chung mang tầm cỡ quốc gia để phối hợp và hòa nhập các mảng tách biệt về chính sách Biển Đông của Trung Quốc. Hơn nữa, một số nhà phân tích có vị trí ở Trung Quốc thậm chí còn dám chắc rằng những hành động khiêu khích của Trung Quốc tại Biển Đông có thể gây tổn hại nghiêm trọng đến điều mà họ coi là “giai đoạn cơ hội chiến lược” của Trung Quốc trong khu vực.

Thứ hai, quan trọng hơn, chắc chắn không có bất kỳ đề xuất chính sách lớn nào được hé lộ trước Đại hội đảng lần thứ 18, dự kiến được diễn ra vào mùa thu tới. Trong giai đoạn đoạn chuyển giao lãnh đạo sẽ gần như không có thay đổi lớn nào trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Hơn nữa vụ việc về ông Bạc Hy Lai, người bị cách chức bí thư tỉnh ủy Trùng Khánh, và Trần Quang Thành, người đã tá túc trong sứ quán Mỹ 6 ngày, vẫn còn đang “vang dội” ở Trung Quốc. Vì vậy Trung Quốc chắc chắn sẽ không tìm kiếm rủi ro khi giải quyết các vấn đề với thế giới bên ngoài. Một khi đã có nhiều bất lợi, chiến tranh với một trong những nước láng giềng của Trung Quốc chỉ càng làm trầm trọng hóa tình hình, khiến ban lãnh đạo của nước này thêm bấp bênh.

Tóm lại, khả năng leo thang xung đột thêm giữa Trung Quốc và Philippines khó có thể tưởng tượng đến. Mặc dù khó có sự ổn định trong tương lai gần, nhưng viễn cảnh về một cuộc xung đột quân sự thực sự vẫn còn rất xa vời.

Thứ Hai, 28 tháng 5, 2012

Biển Đông: Trung Quốc chuyển sang ‘mặt trận’ thời tiết


Sau những đối đầu về ngoại giao, để khẳng định yêu sách chủ quyền rộng lớn ở Biển Đông, Trung Quốc tiến thêm một bước nữa khi tuyên bố tiến hành dự báo thời tiết ở Hoàng Sa, Trường Sa và bãi cạn Scarborough.

Cổng thông tin điện tử của chính phủ Trung Quốc hôm nay cho hay, cục khí tượng ở Hải Nam đã phát đi các thông tin dự báo thời tiết tại đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa và bãi đá Vĩnh Thử thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam cũng như với đảo Hoàng Nham.

Cổng thông tin này dẫn lời Thái Tần Ba - giám đốc trạm khí tượng tỉnh Hải Nam rằng: “Cải thiện dự báo thời tiết ở Biển Đông là rất quan trọng nhằm đảm bảo an toàn cho các tàu thuyền đi lại cũng như hoạt động sản xuất ven biển”.

Đảo Hoàng Nham là cách Trung Quốc gọi bãi cạn đang có tranh chấp với Philippines. Người Philippines gọi đây là bãi cạn Panatag hoặc Bajo de Masinloc (tên quốc tế là Scarborough).

Biển Đông: TQ chuyển sang ‘mặt trận’ thời tiết
Biển Đông: TQ chuyển sang ‘mặt trận’ thời tiết

Theo tin tức đăng trên cổng thông tin của Trung Quốc, Biển Đông có nguồn cá phong phú, tài nguyên dầu khí giàu có và cũng là khu vực xảy ra bão gió liên miên.

Tuyên bố đưa ra dự báo thời tiết ở các khu vực trên là dấu hiệu mới nhất thể hiện sự quả quyết của Trung Quốc trong tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông, nhất là các khu vực tranh chấp. Bãi cạn Scarborough là nơi mà cuộc đối đầu giữa tàu thuyền Trung Quốc và Philippines chưa có dấu hiệu chấm dứt dù đã sang tuần thứ bảy.

Trung Quốc đưa ra tuyên bố chủ quyền với bãi cạn Scarborough cũng như hầu hết Biển Đông bằng những viện dẫn lịch sử, kể cả những vùng ấy sát cạnh bờ biển của một số nước láng giềng châu Á. Trong khi đó, Philippines tuyên bố bãi cạn nằm trong phạm vị 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế, được luật pháp quốc tế công nhận.

Chuyện chồng lấn chủ quyền Biển Đông khiến tranh chấp các bên kéo dài nhiều thập niên qua, làm cho khu vực này trở thành một trong những nơi "nóng nhất", dễ châm ngòi cho xung đột quân sự của châu Á.

Thứ Ba, 15 tháng 5, 2012

Trung Quốc ngang ngược cấm đánh cá ở biển Đông


Trung Quốc hôm qua ngang nhiên tuyên bố sẽ cấm đánh bắt ở nhiều khu vực trên biển Đông. Philippines khẳng định không công nhận lệnh này.

Theo báo China Daily, chính quyền Trung Quốc sẽ áp đặt lệnh cấm đánh bắt mới ở phía bắc biển Đông trong 2 tháng rưỡi, bắt đầu từ ngày 16.5. Trong đó, gồm cả bãi cạn Scarborough, nơi đang xảy ra tranh chấp với Philippines hơn 1 tháng qua. Từ năm 1999 đến nay, Bắc Kinh liên tục cấm đoán ở khu vực biển Đông mà nước này tự cho là thuộc chủ quyền của mình với cái cớ “bảo vệ hệ sinh thái và tài nguyên biển”. China Daily dẫn lời giới chức cho biết sẽ tịch thu tàu thuyền, thiết bị và hải sản của “người vi phạm”.

Ngay lập tức, Đài ABS-CBN dẫn tuyên bố của Bộ Ngoại giao Philippines khẳng định nước này sẽ không công nhận lệnh cấm nói trên. Ngoại trưởng Albert del Rosario nhấn mạnh động thái của Bắc Kinh “xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Philippines” và Manila “sẽ thực thi các đặc quyền hợp pháp theo Công ước LHQ về luật Biển (UNCLOS)”. Tuy nhiên, ông cũng cho biết Philippines “có thể áp đặt lệnh cấm tương tự để khôi phục nguồn hải sản”.

Ngư dân Philippines tại khu vực gần bãi cạn Scarborough - Ảnh: Reuters
Ngư dân Philippines tại khu vực gần bãi cạn Scarborough - Ảnh: Reuters

Theo giới quan sát, lệnh cấm được đưa ra giữa lúc căng thẳng ở Scarborough chưa được xoa dịu nên sẽ tạo cớ cho tàu công vụ của Trung Quốc bắt bớ tàu cá Philippines tại đây. Bắc Kinh cũng muốn hạn chế các bên khác đánh bắt trong vùng tranh chấp trong giai đoạn hiện nay, đồng thời gia tăng tần suất hiện diện của tàu mình ở đây. Việc Trung Quốc dự định đưa vào biên chế 36 tàu hải giám trong năm tới có thể cũng nhằm thực hiện mục tiêu này.

Đến nay, Trung Quốc luôn phản đối các nước bên ngoài lên tiếng về tranh chấp trên biển Đông. Cũng giống như với Mỹ, nước này đang gây áp lực để buộc Nga phải tránh xa khu vực chiến lược và giàu tài nguyên. Trang tin World Net Daily dẫn lời ông Dmitriy Mosyakov thuộc Viện Nghiên cứu các nước phương Đông của Nga nói rằng Moscow hiện phải đối mặt với “một lựa chọn và giá của lựa chọn đó có thể sẽ rất cao”.

Nếu Nga từ bỏ lợi ích ở biển Đông để đổi lấy quan hệ với Trung Quốc thì nước này “không chỉ mất mặt ở châu Á, ảnh hưởng đến hình ảnh quốc gia mà còn đánh mất luôn những hợp đồng dầu khí trị giá hàng tỉ USD”. Tuy nhiên, vấn đề biển Đông trên thực tế đang thu hút sự quan tâm của ngày càng nhiều quốc gia như Ấn Độ, Nhật Bản... Theo Đài GMA hôm qua, Úc đã lên tiếng thúc giục các nước tuyên bố chủ quyền ở biển Đông giải quyết tranh chấp theo UNCLOS. “Chúng tôi không ủng hộ bên nào nhưng vì Úc cũng có quyền lợi ở biển Đông nên chúng tôi kêu gọi các bên tôn trọng những nguyên tắc hàng hải dựa trên luật pháp quốc tế, bao gồm cả UNCLOS”, Ngoại trưởng Úc Bob Carr tuyên bố. 

Thứ Năm, 10 tháng 5, 2012

Trung Quốc biến Philippines thành kẻ gây hấn trên Biển Đông


Ngày 9-5, Trung Quốc qua cái loa đồng loạt của các hãng truyền thông lớn đã đổ tội cho Philippines là kẻ gây hấn đang leo thang căng thẳng ở khu vực bãi cạn Scarborough (Trung Quốc gọi là Hoàng Nham). Sự thật ra sao?

Tàu ngư chính 310 của Trung Quốc cùng 32 tàu khác đã có mặt ở bãi cạn Scarborough
Tàu ngư chính 310 của Trung Quốc cùng 32 tàu khác đã có mặt ở bãi cạn Scarborough
Cuộc đối đầu giữa tàu hai nước ở bãi cạn Scarborough đã bước sang tuần thứ ba. Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Phúc Oánh lớn giọng đe nẹt: Bắc Kinh đã chuẩn bị mọi thứ để phản ứng bất kỳ hành động nào của Philippines ở vùng tranh chấp này. Tân Hoa xã bình luận với đầy ngầm ý là thế bí của cục diện ở Scarborough có thể đang bị phá vỡ.
Tại cuộc họp với các nhà ngoại giao Philippines ở Bắc Kinh, Bộ Ngoại giao Trung Quốc lại một lần nữa khẳng định chủ quyền của Trung Quốc ở bãi cạn Scarborough. Bà Phúc Oánh tuyên bố: “Rõ ràng là phía Philippines chẳng những đã không nhận ra mình sai lầm nghiêm trọng mà còn đang ra sức leo thang căng thẳng”.
Vừa đánh trống vừa la làng
Trong khi đổ tội cho Philippines làm tình hình thêm căng thẳng, Trung Quốc lại tiếp tục điều tàu đến bãi Scarborough. Báo Philippines Daily Inquirer cho biết hiện có tới 33 tàu Trung Quốc đang có mặt ở khu vực này. Ngược lại, phía Philippines chỉ có hai tàu neo đậu ở đây là tàu tìm kiếm và cứu hộ của lực lượng bảo vệ bờ biển BRP Edsa II và một tàu khác của Cục Ngư nghiệp và nguồn tài nguyên dưới nước.
Báo này mô tả đội tàu của Trung Quốc đang vây kín khu vực nước xung quanh bãi cạn Scarborough. Bắc Kinh đưa ba tàu cực lớn đến đây, đó là tàu ngư chính 310, hai tàu hải giám 75 và 81, cả ba đều là những tàu hiện đại nhất của Trung Quốc hiện nay. Ngoài ra còn bảy tàu đánh cá loại lớn và 23 tàu cá nhỏ đang lờn vờn quanh khu vực.
Thị trưởng thành phố Masinloc Desiree Edora cho biết các tàu ngư chính và hải giám ngang nhiên dẫn đường cho tàu cá Trung Quốc vào bãi cạn Scarborough đánh bắt. Ngư dân Philippines cũng quyết tâm trở lại bãi cạn Scarborough để đánh bắt. Song, như hải quân Philippines cho biết, Trung Quốc lại “lấy thịt đè người” khi cho các tàu tiếp cận tàu cá của Philippines và chiếu đèn pha gây rối.
Trong lúc đó, Tân Hoa xã viết: bất chấp phản đối của Trung Quốc, Philippines vẫn điều tàu chiến đến bãi Scarborough và đổi tên bãi cạn này thành Panatag. Manila còn tháo bỏ những tín hiệu khẳng định chủ quyền của Trung Quốc ở vùng nước xung quanh bãi cạn này. Bà Phúc Oánh cũng cao giọng yêu cầu Philippines rút tàu khỏi vùng biển xung quanh bãi Scarborough, không được ngăn cản tàu đánh cá của Trung Quốc hoạt động.
Phía Philippines lại khẳng định chính Trung Quốc đang kiếm chuyện với họ khi cho ba tàu lớn cùng hàng đàn tàu cá dàn trận ngăn cản ngư dân Philippines tiếp cận ngư trường quanh bãi đá cạn Scarborough thuộc chủ quyền của mình. Căng thẳng đang rình chờ khi bà Phúc Oánh cứng rắn tuyên bố Bắc Kinh sẽ tiếp tục hỗ trợ cho các tàu cá của họ hoạt động trong khu vực này.
Cả vú lấp miệng em
Các phương tiện truyền thông Trung Quốc trong những ngày này liên tục có các bài xã luận cho thấy rõ ý đồ độc chiếm chủ quyền của Trung Quốc ở biển Đông. Ngày 7-5, phát thanh viên Hòa Giai của Đài truyền hình trung ương Trung Quốc CCTV đã nhiều lần tuyên bố “Philippines thuộc về Trung Quốc”.
“Tất cả chúng ta đều biết rằng Philippines là lãnh thổ cố hữu của Trung Quốc và Philippines thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Điều này là không thể tranh cãi” – phát thanh viên Hòa Giai tuyên bố. Trước phản ứng của truyền thông Philippines và quốc tế, suốt những ngày qua CCTV đã im hơi lặng tiếng. Phần tin tức này trên trang web của CCTV đã biến mất ngay sau đó, không một lời đính chính.
Cùng lúc, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi luôn miệng khẳng định: “Hoàng Nham là phần lãnh thổ không thể nhường cho ai được”, và yêu cầu Philippines kiềm chế những hành động sẽ làm phức tạp, lan rộng hoặc quốc tế hóa vấn đề. Kèm theo là ngày 9-5, Thời Báo Hoàn Cầu đe dọa: hòa bình trên biển Đông là “thứ hàng xa xỉ” trước “sự gây hấn của Manila”. Do vậy, “hành động cứng rắn là rất cần thiết trong tranh chấp với Philippines”. Tờ báo này cũng đổ tội cho Philippines là đã “khuấy động” tình hình, nên “cần dạy cho Philippines một bài học về chủ nghĩa dân tộc cực đoan của họ”.
Phó tổng thư ký Hội Khoa học quân sự Trung Quốc La Viện còn cho rằng Trung Quốc cần khẳng định chủ quyền của mình ở bãi cạn Scarborough bằng việc cắm cờ Trung Quốc hoặc lập căn cứ quân sự hay một cơ quan ngư nghiệp ở đây.

Thứ Năm, 26 tháng 4, 2012

Trung Quốc làm càn trên biển Đông


Trong mấy ngày qua, dư luận Trung Quốc đang xôn xao trước bài viết đăng trên trang web của Thời báo Hoàn Cầu hôm 23.4 và được hàng loạt trang tin điện tử của Trung Quốc đăng lại, chỉ trích “Trung Quốc đã làm càn trên biển Đông”.

Bài viết được đăng trong bối cảnh căng thẳng giữa Bắc Kinh và Manila xung quanh tranh chấp trên vùng đảo Scarborough/Hoàng Nham đang ngày càng “nóng”, khiến quốc tế hết sức lo ngại. Với nhan đề Mỹ choáng váng: Trung Quốc bài binh bố trận trên biển Đông vượt quá dự liệu, bài viết chỉ ra, bất chấp cảnh báo của Mỹ và Nhật Bản, nhưng những hành động cứng rắn của Trung Quốc trên biển Đông chưa khi nào ngừng.

Thời báo Hoàn Cầu hôm 23.4 chỉ trích “Trung Quốc làm càn trên biển Đông”.
Thời báo Hoàn Cầu hôm 23.4 chỉ trích “Trung Quốc làm càn trên biển Đông”.
Bài viết đặt vấn đề, trong vấn đề biển Đông, chính phủ Trung Quốc luôn chiếm quyền chủ động. Mặc dù dư luận trong nước cho rằng, hải quân Trung Quốc trên biển Đông còn rất yếu, nhưng thực tế thì sao?

Trước đây Hãng dầu khí của Anh BP đã từng đạt được thỏa thuận với Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PetroVietnam) khai thác các giếng khí đốt Mộc Tinh và Hải Thạch tại biển Đông, ngoài khơi thềm lục địa của Việt Nam. Nhưng trước sức ép của Bắc Kinh BP phải rút lui khỏi dự án này. “Nếu hành động này chỉ xảy ra một lần vẫn còn chấp nhận được, nhưng lặp đi lặp lại nhiều lần, có thể thấy thái độ của Trung Quốc đối với biển Đông, can thiệp vào các thoả thuận này là vô lý”, bài báo viết.

Do không có đủ năng lực tự khai thác dầu, các nước Đông Nam Á thường phải tìm kiếm những công ty phương Tây hợp tác khai thác dầu ở biển Đông. Nhưng vì tàu chiến, máy bay của hải quân Trung Quốc luôn xuất hiện dày đặc. Hơn nữa Bắc Kinh còn thành lập thành phố Tam Sa, xây dựng sân bay trên đảo Vĩnh Hưng (Phú Lâm), nên họ không thể yên ổn khai thác dầu trên biển Đông.
Tàu chiến Trung Quốc diễn tập bắn đạn thật trên biển Đông
Tàu chiến Trung Quốc diễn tập bắn đạn thật trên biển Đông

Cũng có một số công ty nhỏ muốn thử, nhưng liền gặp phải sự khống chế của hai “ông lớn”: Tổng công ty Dầu khí Quốc gia Trung Quốc (CNPC) và Tổng công ty Dầu khí – Hóa chất Trung Quốc (Sinopec) -luôn vươn ra khắp thế giới tìm mua dầu khí, liên kết khai thác dầu mỏ… Hành vi khống chế này cũng không phải chỉ xảy ra trong một thời gian ngắn.

Ngoài Malaysia có những mỏ dầu gần bờ,còn hầu hết các mỏ dầu đều xa bờ, các công ty phương Tây đều không muốn làm mếch lòng Trung Quốc. Tuy nhiên, cho dù Malaysia có những mỏ dầu gần bờ, nhưng nếu mở bản đồ ra xem cho thấy, Trung Quốc chủ trương đẩy đường giới tuyến trên biển đến sát vùng đặc quyền 12 hải lý của Malaysia.

Điều đó có nghĩa là, vùng đặc quyền kinh tế cũng không thuộc về Kuala Lumpur. Đến bãi ngầm James Shoal nằm ở phía đông Malaysia, còn được Bắc Kinh coi là điểm cực nam của nước này, cho thấy sự tưởng tượng quá mức cùng với sự gian tà tột cùng của họ.

Cái bản đồ “đường lưỡi bò” vốn do chính quyền Trung Hoa dân quốc vẽ ra trên biển Đông, nay được Bắc Kinh ra sức tuyên truyền để có sự chấp nhận của dân chúng trong nước cũng như quốc tế. Từ xưa đến nay, đối với các nước như Brunei, Malaysia… Trung Quốc vẫn luôn vẽ đường phân tuyến tới “tận cửa nhà người ta”. Sau đó phân hóa Myanmar, Thái Lan, Campuchia… chia rẽ các nước ASEAN, nhấn chìm Philippines và từng bước gặm nhấm Việt Nam.

"Đường lưỡi bò" vô lý đăng trên bản đồ Hành chính và Du lịch tỉnh Hải Nam (Trung Quốc), năm 1999
"Đường lưỡi bò" vô lý đăng trên bản đồ Hành chính và Du lịch tỉnh Hải Nam (Trung Quốc), năm 1999

Thập niên 1930 – thời kỳ cực thịnh của chính quyền Trung Hoa dân quốc. Trong thời kỳ đó, một nhóm chuyên gia tìm cách mở rộng lợi ích dân tộc Hán. Một số người du học trở về đem theo những bản đồ hàng hải của Anh, Pháp, Mỹ, Nhật và tìm tất cả các loại đảo trên khắp tấm bản đồ đó, chỉ cần có lợi cho Trung Quốc liền đánh dấu hết lên trên đó.

Một nhóm chuyên ra trong nước thì tìm kiếm các tư liệu sử sách cũ, từ các đời Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh để mò mẫm những tuyến lãnh hải nhằm tuyên bố chủ quyền. Một lần, họ phát hiện ra một dải đá ngầm mang tên James Shoal. Họ đã đẩy đường giới tuyến biển xuống đến đó, dừng lại đó vì xét thấy không thể mở rộng được nữa, nếu không, sẽ đưa Malaysia nhập vào lãnh thổ Trung Quốc.

Năm 1935, Trung Hoa dân quốc đã cho công bố tên gọi dải đá ngầm James Shoal này là dải đá ngầm Tăng Mẫu, đồng thời tuyên bố rằng đây chính là ranh giới cực nam vỹ độ thấp nhất thuộc phạm vi lãnh thổ của Trung Quốc.

Sau khi Trung Quốc mới ra đời, Trung Hoa dân quốc bị đẩy ra đảo Đài Loan cho đến ngày nay. Mặc dù đối đầu nhiều vấn đề, nhưng riêng về “đường lưỡi bò” này cả Trung Quốc đại lục và Đài Loan dễ dàng có tiếng nói chung.

“Do địa lý biển Đông quá lớn, khoảng cách giữa các đảo cũng tương đối xa, mặc dù được gọi là biển Nam Trung Hoa, tuy nhiên, điều này không có nghĩa đây là vùng biển của riêng Trung Quốc. Nói theo cách đó, không lẽ Ấn Độ Dương thuộc về Ấn Độ?”. Bài viết lập luận.

Ai đã khiến cho biển Đông dậy sóng? Bài viết đặt câu hỏi.


Trung Quốc đã làm càn trong các cuộc xung đột từng xảy ra trên biển Đông. Bài viết thuật lại những trận đánh chiếm của hải quân Trung Quốc lên quần đảo Hoàng Sa năm 1974 và Trường Sa năm 1988.

Năm 1989, sau khi chiếm được một số đảo trên quần đảo Trường Sa, với ý đồ lôi kéo sự thừa nhận của Liên hợp quốc, trong vai trò là Uỷ viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Bắc Kinh kêu gọi UNESCO lập Trạm quan sát hải dương trên dải đá Chữ Thập (Fiery Cross Ree, Trung Quốc gọi là Vĩnh Thử), hàm ý rằng, ai dám đánh chiếm dải đá Chữ Thập, chính là đối đầu với Liên hợp quốc.

Phần cuối, bài viết đưa ra kết luận: “Bắc Kinh ngày càng thích gây ra rắc rối trên biển Đông. Trung Quốc đã tát vào mặt người khác, rồi tỏ thái độ tức giận rằng, họ đã tự đập mặt vào tay mình”.