Tuy có những đánh giá khác nhau về nội dung và tính chất của “đường lưỡi bò”, một số học giả Trung Quốc và Đài Loan vẫn cố tình khẳng định rằng, đường này đã được quốc tế công nhận rộng rãi.
|
Quốc tế chưa bao giờ và sẽ không bao giờ công nhận đường 'lưỡi bò' |
Các học giả Đài Loan giải thích, đường này thể hiện yêu sách đối với các đảo, đá, bãi cạn nửa nổi nửa chìm trong phạm vi “đường lưỡi bò” từ năm 1946. Còn các học giả Trung Quốc cho rằng, đây là đường biên giới truyền thống trên Biển Đông và Trung Quốc yêu sách không chỉ các địa vật mà cả vùng nước bên trong và kế cận.
Theo họ, trước những năm 1960 và 1970, Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và các nước Đông Nam Á khác đều không đưa ra phản đối yêu sách “đường lưỡi bò”. Điều đó chứng tỏ, các nước này đã công nhận và mặc nhiên chuẩn y đường này cũng như “tính chất lịch sử” của nó. Điều đó cũng chứng tỏ, các quốc gia này đã công nhận cả 4 quần đảo (Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa) thuộc chủ quyền Trung Quốc.
Nhưng sự thật lại không phải như vậy.
Trước hết, phải khẳng định ngay rằng, kể từ khi Trung Quốc xuất bản bản đồ có “đường lưỡi bò” từ năm 1948 đến năm 2009, nước này chưa bao giờ đưa ra yêu sách chính thức vùng nước nằm trong “đường lưỡi bò” là “vùng nước lịch sử”.
Đại diện của Trung Quốc tham gia Hội nghị của Liện Hợp Quốc về Luật Biển lần thứ 3 đã không có tuyên bố gì về “đường lưỡi bò”. Đặc biệt, trong quá trình xây dựng và công bố các văn bản quy phạm pháp luật về biển của mình, Trung Quốc cũng không hề đề cập đến “đừng lưỡi bò”. Chẳng hạn như Tuyên bố quy định lãnh hải 12 hải lý năm 1958; Luật về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp lãnh hải năm 1992; Luật về Đường Cơ sở lãnh hải năm 1996; Luật về vùng Đặc quyền về kinh tế và Thềm lục địa năm 1998; Luật về quản lý và sử dụng biển năm 2001; Luật về nghề cá năm 2004,…
Theo luật pháp quốc tế, một yêu sách có liên quan đến biên giới lãnh thổ quốc gia hợp pháp phải thể hiện rõ ràng, công khai ý chí về chủ quyền trên lãnh thổ mà quốc gia đó yêu sách. Những hành vi bí mật không thể tạo nên cơ sở cho quyền lịch sử; ít nhất các quốc gia khác phải có cơ hội biết được cái gì đang diễn ra.
Theo TS. Hoàng Việt, giảng viên Trường Đại học Luật TP. HCM, việc cho xuất bản bản đồ của một cá nhân mà không công bố rõ ràng trước cộng đồng quốc tế thì không thể gọi là một yêu sách lãnh thổ của một quốc gia được.
Vì Trung Quốc chưa bao giờ công bố chính thức yêu sách về vùng biển bên trong “đường lưỡi bò”, tính đến năm 2009, nên các quốc gia khác không đưa ra phản ứng chính thức gì cũng là một điều dễ hiểu. Sự im lặng đó không thể hiểu là “mặc nhiên thừa nhận” được. Chưa nói đến, trong thực tế, cộng đồng khu vực và quốc tế đã không hề im lặng mỗi khi nhìn thấy “đường lưỡi bò” xuất hiện trong các tài liệu, bản đồ, sơ đồ,… do Trung Quốc phát tán trong các diễn đàn khu vực và quốc tế.
Liên quan đến “4 quần đảo” giữa Biển Đông mà Trung Quốc khẳng định rằng, họ có “chủ quyền lịch sử”, đã được công nhận rộng rãi trên trường quốc tế, nên họ có quyền vạch ra“đường lưỡi bò” để xác định các “vùng biển liên quan”, “vùng biển liền kề”. Chúng ta hãy xem xét luận điểm này thông qua một số sự kiện chủ yếu có liên quan đến phản ứng của các nước trước những tuyên bố chủ quyền đối với các quần đảo này.
Sự kiện đáng chú ý liên quan đến hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa không thể không nhắc đến là, theo yêu cầu của ông Gromyko (đại diện của Liên Xô), trong phiên họp toàn thể ngày 5/9/1951 tại Hội nghị San Francisco, Nhật Bản phải thừa nhận chủ quyền của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đối với một loạt lãnh thổ, trong đó có các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng đề xuất này đã bị 46 nước trong tổng số 51 nước có mặt ngày hôm đó bác bỏ.
Ông Đinh Kim Phúc, giảng viên khoa Đông Nam Á, Đại học Mở TP.HCM cho biết: “Chính Thủ tướng của Chính phủ Bảo Đại Trần Văn Hữu, lúc bấy giờ, đã trịnh trọng tuyên bố trước Hội nghị ở San Francisco rằng, để xóa tan những nghi ngờ, những mầm mống xung đột về sau thì Việt Nam tuyên bố Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam như nó đã vốn có từ trước. Lời tuyên bố đó đã được ghi vào biên bản của hội nghị.”
Như vậy, trong các tuyên bố hay các thỏa thuận đa phương, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chưa bao giờ được xem là của Trung Quốc. Nói cách khác, cộng đồng quốc tế chưa bao giờ công nhận hai quần đảo này thuộc Trung Quốc. Thực tế này cùng những đòi hỏi chủ quyền của Philippines và Malaysia đối với hầu như toàn bộ hoặc một bộ phận của quần đảo Trường Sa cho thấy, không thể nói “đường đứt khúc 9 đoạn” trên Biển Đông đã được các nước khác công nhận.
Các quốc gia chỉ có thể phản đối một khi quốc gia kia đã nêu yêu sách chính thức và rõ ràng. Chúng ta đã bàn chi tiết về đặc điểm mập mờ của “đường lưỡi bò” của phía Trung Quốc. Do đó, chỉ có thể phản đối yêu sách này trong trường hợp Trung Quốc chính thức đưa ra yêu sách.
Các học giả quốc tế thống nhất cho rằng, thời điểm Trung Quốc gửi hai Công hàm ngày 7/5/2009 lên Liên Hợp Quốc, trong đó có kèm bản đồ “đường lưỡi bò” mới là thời điểm đầu tiên bản đồ này xuất hiện công khai trước cộng đồng quốc tế.
Và ngay khi “đường lưỡi bò” chính thức xuất hiện trước cộng đồng quốc tế, ngày 8/5/2009, Việt Nam đã gửi Công hàm để phản đối.
Công hàm này nêu rõ: “Các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là bộ phận của lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam có chủ quyền không thể chối cãi đối với các quần đảo này. Yêu sách của Trung Quốc đối với các đảo và vùng biển lân cận ở Biển Đông như được minh hoạ trên bản đồ đính kèm với các Công hàm CML/17/2009 và CML/18/2009 không hề có cơ sở pháp lý, lịch sử và thực tế, do đó vô hiệu.”
Ngày 8/7/2010, Indonesia, một quốc gia không hề dính líu đến tranh chấp Biển Đông, đã chính thức gửi Công hàm lên Liên Hợp Quốc để phản đối yêu sách này của Trung Quốc. Công hàm của Indonesia viết: “Cái gọi là “bản đồ đường đứt đoạn” kèm theo Công hàm số: CML/17/2009, ngày 7/5/2009 nói trên rõ ràng thiếu cơ sở pháp lý quốc tế và đi ngược lại các quy định của Công ước Luật Biển 1982 của Liên Hợp Quốc.”
Ngày 5/4/2011, Philippines cũng gửi một Công hàm lên Liên Hợp Quốc để phản đối “đường lưỡi bò” của Trung Quốc.
Trong tuyên bố ngày 23/7/2010 tại Hà Nội, Ngoại trưởng Mỹ Clinton đã lên tiếng phản đối những yêu sách biển không tuân thủ Công ước Luật biển 1982 mà “đường lưỡi bò” chính là đối tượng được nhắc đến.
Ông Marvin Ott, Giáo sư Trường Đại học Johns Hopkins cho rằng: “Bằng cách tuyên bố chủ quyền đối với hầu hết khu vực Biển Đông thông qua “đường lưỡi bò”, có nghĩa rằng, toàn bộ khu vực này thuộc về Trung Quốc thì không có một quốc gia lớn nào trên thế giới có thể ủng hộ đòi hỏi này. Mỹ không ủng hộ. Ấn Độ không ủng hộ. Cộng đồng châu Âu không ủng hộ. Australia không ủng hộ. Nhật Bản không ủng hộ. Không có nước nào ủng hộ tuyên bố này của Trung Quốc.”
GS. Erik Franckx, Trưởng Khoa Luật Quốc tế và châu Âu, Đại học Brussel, Bỉ phân tích, “những hành động vừa nêu tuân thủ các tiêu chuẩn của luật pháp quốc tế cần thiết để tạo nên các hành động phản đối có hiệu lực pháp lý, do đó, “đường lưỡi bò” không thể được sử dụng chống lại các quốc gia phản đối. Tiêu chuẩn về mặt thời gian cũng đã được đáp ứng vì các quốc gia đã phản đối ngay khi có các hành động của Trung Quốc. Yêu cầu về mục đích rõ ràng cũng được đáp ứng vì các tuyên bố của Việt Nam và các nước khác rõ ràng nhằm mục đích ngăn chặn việc có hiệu lực các hành vi pháp lý mới của Trung Quốc ”.
Bà Monique Chemillier Gendreau, Giáo sư Công pháp và Khoa học Chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu kết luận: “Điều quan trọng là phải có sự đồng ý của các quốc gia khác thì đó mới có thể coi là quyền hợp pháp. Nếu các nước khác không đồng ý thì không thể gọi là Trung Quốc có quyền và có tính hợp pháp về “đường lưỡi bò” được.”
Hơn nữa, điều đáng nhấn mạnh ở đây là, trong các văn bản quy phạm pháp luật do Trung Quốc công bố không những không nhắc đến “đường đứt khúc 9 đoạn”, mà ngay cả nội dung thể hiện trong đó còn mâu thuẫn với quan điểm chính thức của Trung Quốc về “đường lưỡi bò”.
Chẳng hạn, Tuyên bố của Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa về lãnh hải năm 1958 quy định: “Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tuyên bố: Bề rộng lãnh hải của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý. Quy định này áp dụng cho tất cả lãnh thổ của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, bao gồm lục địa và các đảo ven bờ, cũng như Đài Loan và các đảo phụ cận, Bành Hồ, Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa, Nam Sa quần đảo và tất cả các đảo thuộc Trung Quốc được tách rời khỏi lục địa và các đảo ven bờ bởi biển cả.”
Như vậy, Tuyên bố năm 1958 của Trung Quốc đã xác định rõ ràng, các đảo bị tách biệt bởi biển cả, tức là vùng biển tự do quốc tế, chứ không phải là “vùng nước lịch sử” thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Chẳng lẽ lại tồn tại vùng biển cả nằm trong nội thuỷ của Trung Quốc? Không thể có điều vô lý đó.
Thêm nữa, Tuyên bố của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa về Lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải năm 1992; Tuyên bố của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa về đường cơ sở để tính chiều rộng của lãnh hải năm 1996,… đều có những nội dung mâu thuẫn tương tự.
Thượng nghị sỹ John McCain, một chính khách và từng là ứng cử viên Tổng thống Mỹ của Đảng Cộng hoà khẳng định, tuyên bố của Trung Quốc như vậy là không đúng sự thật: “Trung Quốc đã tuyên bố đường đứt khúc 9 đoạn. Họ cho rằng, phần lớn khu vực Biển Đông thuộc về lãnh thổ Trung Quốc. Đó là một tuyên bố không đúng sự thật. Khu vực này là vùng biển quốc tế”.
Các học giả Trung Quốc còn viện dẫn một số trường hợp yêu sách vùng nước lịch sử trong thực tiễn quốc tế như yêu sách của Liên Xô cũ ngày 20/7/1957 tại vịnh Pierre Đại đế; yêu sách của Libya ngày 11/10/1973 tại vịnh Sidra. Theo họ, các ví dụ này chứng tỏ trong thực tiễn quốc tế, luật về các vịnh lịch sử đã có được một quy chế pháp lý riêng biệt và như vậy, yêu sách “đường đứt khúc 9 đoạn” của Trung Quốc là hợp pháp. Cần phải khẳng định ngay rằng, lập luận này chỉ dựa trên cơ sở một số trường hợp yêu sách quá đáng vùng nước lịch sử mà pháp luật quốc tế luôn phê phán. Các trường hợp này không tạo ra được tiền lệ trong luật pháp và thực tiễn quốc tế và không được quốc tế công nhận.
Như vậy, rõ ràng, “đường đứt khúc 9 đoạn” chiếm khoảng 80% diện tích Biển Đông, được Trung Quốc “biến hóa” thành “vùng nước lịch sử” là không có cơ sở pháp lý. Giáo sư Lý Lệnh Hoa (Trung tâm Thông tin Hải Dương Trung Quốc) đã phê phán: “Chứng cứ thật sự có sức thuyết phục, chính là sự kiểm soát thực tế… Anh nói chỗ đó là của anh, vậy anh đã từng quản lý nó chưa? Người ở đó có phục tùng sự quản lý của anh không? Có phải người khác không có ý kiến gì không? Nếu đáp án của những câu hỏi này đều là “có”thì anh thắng là điều chắc. Ở Nam Sa chúng ta không có được điều đó”.