Trang

Hiển thị các bài đăng có nhãn đường lưỡi bò. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn đường lưỡi bò. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 24 tháng 12, 2012

Quốc tế chưa bao giờ và sẽ không bao giờ công nhận đường 'lưỡi bò'


Tuy có những đánh giá khác nhau về nội dung và tính chất của “đường lưỡi bò”, một số học giả Trung Quốc và Đài Loan vẫn cố tình khẳng định rằng, đường này đã được quốc tế công nhận rộng rãi.

Quốc tế chưa bao giờ và sẽ không bao giờ công nhận đường 'lưỡi bò'
Quốc tế chưa bao giờ và sẽ không bao giờ công nhận đường 'lưỡi bò'

Các học giả Đài Loan giải thích, đường này thể hiện yêu sách đối với các đảo, đá, bãi cạn nửa nổi nửa chìm trong phạm vi “đường lưỡi bò” từ năm 1946. Còn các học giả Trung Quốc cho rằng, đây là đường biên giới truyền thống trên Biển Đông và Trung Quốc yêu sách không chỉ các địa vật mà cả vùng nước bên trong và kế cận.
Theo họ, trước những năm 1960 và 1970, Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và các nước Đông Nam Á khác đều không đưa ra phản đối yêu sách “đường lưỡi bò”. Điều đó chứng tỏ, các nước này đã công nhận và mặc nhiên chuẩn y đường này cũng như “tính chất lịch sử” của nó. Điều đó cũng chứng tỏ, các quốc gia này đã công nhận cả 4 quần đảo (Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa) thuộc chủ quyền Trung Quốc.

Nhưng sự thật lại không phải như vậy.

Trước hết, phải khẳng định ngay rằng, kể từ khi Trung Quốc xuất bản bản đồ có “đường lưỡi bò” từ năm 1948 đến năm 2009, nước này chưa bao giờ đưa ra yêu sách chính thức vùng nước nằm trong “đường lưỡi bò” là “vùng nước lịch sử”.

Đại diện của Trung Quốc tham gia Hội nghị của Liện Hợp Quốc về Luật Biển lần thứ 3 đã không có tuyên bố gì về “đường lưỡi bò”. Đặc biệt, trong quá trình xây dựng và công bố các văn bản quy phạm pháp luật về biển của mình, Trung Quốc cũng không hề đề cập đến “đừng lưỡi bò”. Chẳng hạn như Tuyên bố quy định lãnh hải 12 hải lý năm 1958; Luật về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp lãnh hải năm 1992; Luật về Đường Cơ sở lãnh hải năm 1996; Luật về vùng Đặc quyền về kinh tế và Thềm lục địa năm 1998; Luật về quản lý và sử dụng biển năm 2001; Luật về nghề cá năm 2004,…

Theo luật pháp quốc tế, một yêu sách có liên quan đến biên giới lãnh thổ quốc gia hợp pháp phải thể hiện rõ ràng, công khai ý chí về chủ quyền trên lãnh thổ mà quốc gia đó yêu sách. Những hành vi bí mật không thể tạo nên cơ sở cho quyền lịch sử; ít nhất các quốc gia khác phải có cơ hội biết được cái gì đang diễn ra.

Theo TS. Hoàng Việt, giảng viên Trường Đại học Luật TP. HCM, việc cho xuất bản bản đồ của một cá nhân mà không công bố rõ ràng trước cộng đồng quốc tế thì không thể gọi là một yêu sách lãnh thổ của một quốc gia được.

Vì Trung Quốc chưa bao giờ công bố chính thức yêu sách về vùng biển bên trong “đường lưỡi bò”, tính đến năm 2009, nên các quốc gia khác không đưa ra phản ứng chính thức gì cũng là một điều dễ hiểu. Sự im lặng đó không thể hiểu là “mặc nhiên thừa nhận” được. Chưa nói đến, trong thực tế, cộng đồng khu vực và quốc tế đã không hề im lặng mỗi khi nhìn thấy “đường lưỡi bò” xuất hiện trong các tài liệu, bản đồ, sơ đồ,… do Trung Quốc phát tán trong các diễn đàn khu vực và quốc tế.

Liên quan đến “4 quần đảo” giữa Biển Đông mà Trung Quốc khẳng định rằng, họ có “chủ quyền lịch sử”, đã được công nhận rộng rãi trên trường quốc tế, nên họ có quyền vạch ra“đường lưỡi bò” để xác định các “vùng biển liên quan”, “vùng biển liền kề”. Chúng ta hãy xem xét luận điểm này thông qua một số sự kiện chủ yếu có liên quan đến phản ứng của các nước trước những tuyên bố chủ quyền đối với các quần đảo này.

Sự kiện đáng chú ý liên quan đến hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa không thể không nhắc đến là, theo yêu cầu của ông Gromyko (đại diện của Liên Xô), trong phiên họp toàn thể ngày 5/9/1951 tại Hội nghị San Francisco, Nhật Bản phải thừa nhận chủ quyền của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đối với một loạt lãnh thổ, trong đó có các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng đề xuất này đã bị 46 nước trong tổng số 51 nước có mặt ngày hôm đó bác bỏ.

Ông Đinh Kim Phúc, giảng viên khoa Đông Nam Á, Đại học Mở TP.HCM cho biết: “Chính Thủ tướng của Chính phủ Bảo Đại Trần Văn Hữu, lúc bấy giờ, đã trịnh trọng tuyên bố trước Hội nghị ở San Francisco rằng, để xóa tan những nghi ngờ, những mầm mống xung đột về sau thì Việt Nam tuyên bố Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam như nó đã vốn có từ trước. Lời tuyên bố đó đã được ghi vào biên bản của hội nghị.”

Như vậy, trong các tuyên bố hay các thỏa thuận đa phương, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chưa bao giờ được xem là của Trung Quốc. Nói cách khác, cộng đồng quốc tế chưa bao giờ công nhận hai quần đảo này thuộc Trung Quốc. Thực tế này cùng những đòi hỏi chủ quyền của Philippines và Malaysia đối với hầu như toàn bộ hoặc một bộ phận của quần đảo Trường Sa cho thấy, không thể nói “đường đứt khúc 9 đoạn” trên Biển Đông đã được các nước khác công nhận.

Các quốc gia chỉ có thể phản đối một khi quốc gia kia đã nêu yêu sách chính thức và rõ ràng. Chúng ta đã bàn chi tiết về đặc điểm mập mờ của “đường lưỡi bò” của phía Trung Quốc. Do đó, chỉ có thể phản đối yêu sách này trong trường hợp Trung Quốc chính thức đưa ra yêu sách.

Các học giả quốc tế thống nhất cho rằng, thời điểm Trung Quốc gửi hai Công hàm ngày 7/5/2009 lên Liên Hợp Quốc, trong đó có kèm bản đồ “đường lưỡi bò” mới là thời điểm đầu tiên bản đồ này xuất hiện công khai trước cộng đồng quốc tế.

Và ngay khi “đường lưỡi bò” chính thức xuất hiện trước cộng đồng quốc tế, ngày 8/5/2009, Việt Nam đã gửi Công hàm để phản đối.

Công hàm này nêu rõ: “Các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là bộ phận của lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam có chủ quyền không thể chối cãi đối với các quần đảo này. Yêu sách của Trung Quốc đối với các đảo và vùng biển lân cận ở Biển Đông như được minh hoạ trên bản đồ đính kèm với các Công hàm CML/17/2009 và CML/18/2009 không hề có cơ sở pháp lý, lịch sử và thực tế, do đó vô hiệu.”

Ngày 8/7/2010, Indonesia, một quốc gia không hề dính líu đến tranh chấp Biển Đông, đã chính thức gửi Công hàm lên Liên Hợp Quốc để phản đối yêu sách này của Trung Quốc. Công hàm của Indonesia viết: “Cái gọi là “bản đồ đường đứt đoạn” kèm theo Công hàm số: CML/17/2009, ngày 7/5/2009 nói trên rõ ràng thiếu cơ sở pháp lý quốc tế và đi ngược lại các quy định của Công ước Luật Biển 1982 của Liên Hợp Quốc.”

Ngày 5/4/2011, Philippines cũng gửi một Công hàm lên Liên Hợp Quốc để phản đối “đường lưỡi bò” của Trung Quốc.

Trong tuyên bố ngày 23/7/2010 tại Hà Nội, Ngoại trưởng Mỹ Clinton đã lên tiếng phản đối những yêu sách biển không tuân thủ Công ước Luật biển 1982 mà “đường lưỡi bò” chính là đối tượng được nhắc đến.

Ông Marvin Ott, Giáo sư Trường Đại học Johns Hopkins cho rằng: “Bằng cách tuyên bố chủ quyền đối với hầu hết khu vực Biển Đông thông qua “đường lưỡi bò”, có nghĩa rằng, toàn bộ khu vực này thuộc về Trung Quốc thì không có một quốc gia lớn nào trên thế giới có thể ủng hộ đòi hỏi này. Mỹ không ủng hộ. Ấn Độ không ủng hộ. Cộng đồng châu Âu không ủng hộ. Australia không ủng hộ. Nhật Bản không ủng hộ. Không có nước nào ủng hộ tuyên bố này của Trung Quốc.”

GS. Erik Franckx, Trưởng Khoa Luật Quốc tế và châu Âu, Đại học Brussel, Bỉ phân tích, “những hành động vừa nêu tuân thủ các tiêu chuẩn của luật pháp quốc tế cần thiết để tạo nên các hành động phản đối có hiệu lực pháp lý, do đó, “đường lưỡi bò” không thể được sử dụng chống lại các quốc gia phản đối. Tiêu chuẩn về mặt thời gian cũng đã được đáp ứng vì các quốc gia đã phản đối ngay khi có các hành động của Trung Quốc. Yêu cầu về mục đích rõ ràng cũng được đáp ứng vì các tuyên bố của Việt Nam và các nước khác rõ ràng nhằm mục đích ngăn chặn việc có hiệu lực các hành vi pháp lý mới của Trung Quốc ”.

Bà Monique Chemillier Gendreau, Giáo sư Công pháp và Khoa học Chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu kết luận: “Điều quan trọng là phải có sự đồng ý của các quốc gia khác thì đó mới có thể coi là quyền hợp pháp. Nếu các nước khác không đồng ý thì không thể gọi là Trung Quốc có quyền và có tính hợp pháp về “đường lưỡi bò” được.”

Hơn nữa, điều đáng nhấn mạnh ở đây là, trong các văn bản quy phạm pháp luật do Trung Quốc công bố không những không nhắc đến “đường đứt khúc 9 đoạn”, mà ngay cả nội dung thể hiện trong đó còn mâu thuẫn với quan điểm chính thức của Trung Quốc về “đường lưỡi bò”.

Chẳng hạn, Tuyên bố của Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa về lãnh hải năm 1958 quy định: “Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tuyên bố: Bề rộng lãnh hải của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý. Quy định này áp dụng cho tất cả lãnh thổ của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, bao gồm lục địa và các đảo ven bờ, cũng như Đài Loan và các đảo phụ cận, Bành Hồ, Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa, Nam Sa quần đảo và tất cả các đảo thuộc Trung Quốc được tách rời khỏi lục địa và các đảo ven bờ bởi biển cả.”

Như vậy, Tuyên bố năm 1958 của Trung Quốc đã xác định rõ ràng, các đảo bị tách biệt bởi biển cả, tức là vùng biển tự do quốc tế, chứ không phải là “vùng nước lịch sử” thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Chẳng lẽ lại tồn tại vùng biển cả nằm trong nội thuỷ của Trung Quốc? Không thể có điều vô lý đó.

Thêm nữa, Tuyên bố của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa về Lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải năm 1992; Tuyên bố của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa về đường cơ sở để tính chiều rộng của lãnh hải năm 1996,… đều có những nội dung mâu thuẫn tương tự.

Thượng nghị sỹ John McCain, một chính khách và từng là ứng cử viên Tổng thống Mỹ của Đảng Cộng hoà khẳng định, tuyên bố của Trung Quốc như vậy là không đúng sự thật: “Trung Quốc đã tuyên bố đường đứt khúc 9 đoạn. Họ cho rằng, phần lớn khu vực Biển Đông thuộc về lãnh thổ Trung Quốc. Đó là một tuyên bố không đúng sự thật. Khu vực này là vùng biển quốc tế”.

Các học giả Trung Quốc còn viện dẫn một số trường hợp yêu sách vùng nước lịch sử trong thực tiễn quốc tế như yêu sách của Liên Xô cũ ngày 20/7/1957 tại vịnh Pierre Đại đế; yêu sách của Libya ngày 11/10/1973 tại vịnh Sidra. Theo họ, các ví dụ này chứng tỏ trong thực tiễn quốc tế, luật về các vịnh lịch sử đã có được một quy chế pháp lý riêng biệt và như vậy, yêu sách “đường đứt khúc 9 đoạn” của Trung Quốc là hợp pháp. Cần phải khẳng định ngay rằng, lập luận này chỉ dựa trên cơ sở một số trường hợp yêu sách quá đáng vùng nước lịch sử mà pháp luật quốc tế luôn phê phán. Các trường hợp này không tạo ra được tiền lệ trong luật pháp và thực tiễn quốc tế và không được quốc tế công nhận.

Như vậy, rõ ràng, “đường đứt khúc 9 đoạn” chiếm khoảng 80% diện tích Biển Đông, được Trung Quốc “biến hóa” thành “vùng nước lịch sử” là không có cơ sở pháp lý. Giáo sư Lý Lệnh Hoa (Trung tâm Thông tin Hải Dương Trung Quốc) đã phê phán: “Chứng cứ thật sự có sức thuyết phục, chính là sự kiểm soát thực tế… Anh nói chỗ đó là của anh, vậy anh đã từng quản lý nó chưa? Người ở đó có phục tùng sự quản lý của anh không? Có phải người khác không có ý kiến gì không? Nếu đáp án của những câu hỏi này đều là “có”thì anh thắng là điều chắc. Ở Nam Sa chúng ta không có được điều đó”.

Thứ Tư, 19 tháng 12, 2012

Trung Quốc lại đưa đường lưỡi bò vào game


Trò chơi trực tuyến Chinh Đồ 2.0 của Công ty Giant Interactive (Trung Quốc) do Công ty VNG phân phối duy nhất tại Việt Nam đang bị game thủ phản ứng dữ dội vì để “đường lưỡi bò xuất hiện trên bản đồ biển Đông”.
Cụ thể trong bản đồ các bang hội của trò chơi này, phần thể hiện mười quốc gia trong phiên bản “anh hùng thập quốc” có một hình bản đồ nhỏ bên góc phải phía dưới. Bản đồ nhỏ này thể hiện vùng biển Đông gồm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam nhưng lại nằm trong hình “lưỡi bò” của Trung Quốc.
Đường lưỡi bò xuất hiện trong bản đồ các bang hội của game Chinh đồ 2.0
Đường lưỡi bò xuất hiện trong bản đồ các bang hội của game Chinh đồ 2.0
Game thủ phản ứng
Anh Hải (quận Tân Bình, TP.HCM) tỏ ra rất tức giận: “Tôi là một game thủ đã chơi Chinh Đồ từ trước đến giờ. Tôi cũng như nhiều bạn khác chơi game này cho rằng việc bản đồ lưỡi bò là điều không thể nào chấp nhận được”. Game thủ Tố Nga đã chơi Chinh Đồ ngay từ những ngày đầu tiên cũng cho biết: “Đây là một hành vi rất thâm hiểm của công ty phía Trung Quốc, nhưng Công ty VNG cũng đã phạm sai lầm khi để lọt tấm bản đồ trên. Họ cần phải xử lý việc này ngay lập tức”…
Nhiều game thủ khác kiến nghị cơ quan chức năng phải rà soát thật kỹ tất cả trò chơi trực tuyến xuất xứ từ Trung Quốc hiện đang lưu hành tại thị trường Việt Nam thông qua các công ty trong nước. Các phản ảnh đều có chung nhận định: “Công ty Trung Quốc đang lợi dụng chuyện kinh doanh để làm chính trị. Trong khi doanh nghiệp game online trong nước vì lợi ích riêng mà bỏ quên trách nhiệm với chủ quyền đất nước Việt Nam”.
Game thủ chơi game Chinh Đồ 2.0 tại một tiệm Internet ở Q.Tân Bình, TP.HCM chiều 18-12
Game thủ chơi game Chinh Đồ 2.0 tại một tiệm Internet ở Q.Tân Bình, TP.HCM chiều 18-12
VNG bất ngờ
Trao đổi với Tuổi Trẻ về vấn đề này, ông Bùi Minh Phương, giám đốc khối phát hành game Công ty VNG, cho biết trò chơi Chinh Đồ được VNG nhập từ đối tác Trung Quốc và phát hành phiên bản đầu tiên vào hè năm 2008.
Từ đó đến nay, trò chơi luôn được cập nhật thường xuyên nội dung để hấp dẫn người chơi. “Lần cập nhật nội dung mới nhất của Chinh Đồ được thực hiện vào ngày 14-12-2012 và đưa lên máy chủ thực tế vào thứ bảy (15-12). Qua hôm sau, đội ngũ kỹ thuật của VNG đã phát hiện tấm bản đồ này và xóa bỏ vào đêm chủ nhật (16-12). Phía VNG rất bất ngờ vì tấm bản đồ nằm ngoài bản yêu cầu nội dung cập nhật VNG gửi cho nhà sản xuất. Bản đồ nằm sâu trong phần hướng dẫn chơi game nên VNG đã không phát hiện sớm ngay khi thử nghiệm.
Tấm bản đồ có đường lưỡi bò không nằm trong thỏa thuận về nội dung khi hợp tác phát hành game, bởi nhà cung cấp đã tự động đưa vào và không cho nhà phát hành biết” – ông Phương nói.
Bà Đoàn Đỗ Ngọc Thi, trưởng ban truyền thông Công ty VNG, cho biết đây là một sai sót của VNG khi kiểm tra nội dung trò chơi, bởi phiên bản có rất nhiều chi tiết và tấm bản đồ này nằm sâu trong phần hướng dẫn chơi. Tiêu chí của VNG khi phát hành trò chơi là tôn trọng pháp luật Việt Nam, tôn trọng chủ quyền quốc gia và kiên quyết nói không với các đối tác không thực hiện nghiêm túc tiêu chí này.
Hiện VNG đã gửi công văn cho nhà sản xuất trò chơi Chinh Đồ về sự việc này. Tối qua, VNG cho biết đã chấm dứt hợp tác với nhà sản xuất này, bồi thường thiệt hại cho người chơi và ngừng phát hành trò chơi Chinh Đồ từ ngay ngày 19-12-2012.
Dù việc đóng cửa trò chơi sẽ gây thiệt hại rất lớn cho VNG nhưng là một doanh nghiệp do người Việt thành lập, VNG sẽ mạnh tay với các đối tác vi phạm nội dung liên quan đến văn hóa, chính trị và lãnh thổ. Theo bà Thi, hiện VNG đang phát hành năm trò chơi tương tự Chinh Đồ và bộ phận kỹ thuật của VNG đang rốt ráo rà soát nội dung của năm trò này để tránh sự cố như trên.
Yêu cầu gỡ bỏ ngay bản đồ lưỡi bò!
Trao đổi với Tuổi Trẻ, bà Trần Thị Ngọc Hương, chánh thanh tra Sở Thông tin – truyền thông TP.HCM, cho biết trước mắt sẽ yêu cầu VNG gỡ bỏ ngay bản đồ lưỡi bò nêu trên. Đồng thời sở sẽ đối chiếu với kịch bản ban đầu trong hồ sơ của Công ty VNG. Nếu có sai sót, sở sẽ có biện pháp xử lý thích đáng.


Thứ Hai, 6 tháng 8, 2012

Nhố nhăng ‘đường chín đoạn’


Cho đến năm 1945, cái gọi là “đường lưỡi bò” (hay đường chín đoạn) chưa hề xuất hiện. Vậy nó ra đời lúc nào?
Các bản đồ đời nhà Thanh ấn hành từ thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 đều khẳng định điểm cực nam của Trung Quốc chỉ dừng ở phủ Quỳnh Châu tại vĩ tuyến 18,13 độ vĩ bắc. Trong khi quần đảo Hoàng Sa nằm ở vĩ tuyến 17,15 độ vĩ bắc và quần đảo Trường Sa ở từ vĩ tuyến 12 đến 8 độ vĩ bắc. 

Biến thể quái thai 


Phải đến năm 1917, lần đầu tiên trên “Trung Hoa Dân quốc tân khu vực đồ” (1917) quy nạp quần đảo Hoàng Sa bằng cách vẽ thêm một khung vuông phụ trong bản đồ toàn quốc. Chưa dừng lại ở đó, năm 1947, Trung Hoa Dân quốc tiếp tục hành động xâm phạm chủ quyền Việt Nam bằng cách vẽ ra đường 11 đoạn ôm trọn Biển Đông. 
"Đường 11 doạn" năm 1947 và "đường 9 đoạn" năm 2009. Ảnh Tia Sáng
"Đường 11 doạn" năm 1947 và "đường 9 đoạn" năm 2009. Ảnh Tia Sáng

Những diễn biến dồn dập xảy ra trong hai năm 1946-1947 trực tiếp đẩy nhanh các kế hoạch xâm chiếm hai quần đảo quan trọng của Việt Nam trên Biển Đông. Sau khi Nhật đầu hàng quân đồng minh, tháng 2/1946, Quốc dân đảng đã ký với Pháp hiệp ước Trùng Khánh chấm dứt vai trò giải giáp quân Nhật tại Đông Dương. Cuối năm 1946, quân đội Trung Hoa dân quốc đưa bốn tàu chiến do tướng Lâm Tuân dẫn đầu xuôi Biển Đông để đến Hoàng Sa và Trường Sa, mà theo luận điệu hết sức vô lý là “giải giáp tàn quân Nhật”, mặc dù thời gian giải giáp đã hết từ lâu.
Tư liệu do tuần báo Phượng Hoàng (Hong Kong) trong cuộc gặp gỡ những người liên quan đến chuyến đi của Lâm Tuân đang sống ở Đài Loan lại cho biết người vẽ bản đồ “11 đoạn” không phải Lâm Tuân mà chính là giám đốc Sở Phương vực Phó Giác Kim. Ông này đã căn cứ trên những tư liệu sơ sài của Lâm Tuân, Trịnh Tư Duyệt và Tào Hi Mãnh để vẽ bản đồ trên.

Trong cuộc họp ngày 14/4/1947, Bộ Nội chính Trung Hoa dân quốc đã triệu tập hội nghị xác định phạm vi và chủ quyền các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hội nghị quyết định lấy vĩ tuyến 4 độ vĩ bắc, với chót điểm là bãi đá ngầm James ở gần Malaysia làm cực nam của bản đồ “đường 11 đoạn”. Đây chính là tiền thân của “đường lưỡi bò” ngày nay, cái mà Trung Quốc gọi là “đường chữ U” hay “đường 9 đoạn”. Đến đầu năm 1949, chính quyền Quốc dân đảng tháo chạy về Đài Loan, những tưởng đường 11 đoạn đã tiêu tan. Tuy nhiên, lòng tham và mưu đồ “liếm” trọn Biển Đông đã được “kế thừa”.

Theo Thời báo Hoàn Cầu, sau khi đuổi Quốc dân đảng ra khỏi đại lục, năm 1953 Chính phủ CHND Trung Hoa đã... biến “đường 11 đoạn” thành “đường 9 đoạn” nhưng không nêu rõ lý do. “Đường 9 đoạn” này cơ bản giống với “đường 11 đoạn” của Trung Hoa dân quốc. Chỉ có điều là nó tham lam hơn, “liếm” sát Việt Nam, Malaysia và Philippines hơn.

Bắc Kinh tạo ra một biến thể quái thai từ tấm bản đồ của Quốc dân đảng để vẽ ra “đường 9 đoạn” (còn gọi là đường lưỡi bò) rồi ngang nhiên tuyên bố chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam. Sự thay đổi phi lý trong các bản đồ trên là bằng chứng chỉ ra quá trình Trung Quốc “biến không thành có” để thâu tóm các đảo trên Biển Đông.

Chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa đã được Việt Nam xác định


Trên thực tế, ngay từ thế kỷ 17, các nhà nước Việt Nam đã thực sự quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hàng năm các nhà nước phong kiến Việt Nam vẫn cử những đoàn thuyền tuần tra và thu những nguồn lợi từ hai quần đảo này. Trong lúc các bản đồ và tài liệu địa chí Trung Hoa còn chưa đề cập đến hai quần đảo này thì các bản đồ và sách địa chí của Việt Nam đã mô tả tỉ mỉ cả về vị trí và những điều kiện thủy văn và nguồn lợi.

Khi nhận thấy âm mưu xâm chiếm của Trung Quốc và sự manh nha xuất hiện của người Nhật trên tuyến đường biển quan trọng “nối liền giữa Hong Kong và Sài Gòn”, đầu tháng 3/1925, toàn quyền Đông Dương Pasquier đã ra tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc lãnh thổ của Pháp (tức thuộc về An Nam đang là thuộc địa của Pháp lúc bấy giờ).

Sau đó, ngày 13/4/1930, Pháp đã cho tàu La Malicieuse ra Trường Sa để treo quốc kỳ Pháp. Mười ngày sau đó, Chính phủ Pháp đã tuyên bố thực thi chủ quyền trên quần đảo Trường Sa. Trước đó ngày 20/3/1930, toàn quyền Đông Dương đã yêu cầu Bộ thuộc địa Pháp “cần thừa nhận lợi ích của nước Pháp ẩn chứa trong việc thay mặt An Nam thực thi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa”. Sau đó năm 1938-1939, theo Nghị định số 3282 do toàn quyền Đông Dương Brievie ký, Pháp đã triển khai quân binh đến đảo Hoàng Sa xây dựng trạm hải đăng, trạm vô tuyến TFS và trạm khí tượng, song song đó cũng xây dựng thêm một trạm khí tượng khác trên đảo Phú Lâm.

Tháng 3/1933, Pháp đã điều bốn tàu Lamalicieuse, tàu chiến Alerte, hai tàu thủy văn Astrobale và De Lanessan đến Trường Sa ... và một lần nữa xác định chủ quyền.

Trước đó, trong bản ghi chú gửi cho Vụ châu Á đại dương, Bộ Ngoại giao Pháp đã viết: “Việc chiếm đóng quần đảo Trường Sa (Spratley) mà Pháp thực hiện trong hai năm 1931-1932 là nhân danh Hoàng đế An Nam”. Đến năm 1938, Pháp tiếp tục cho xây dựng bia chủ quyền, hải đăng, trạm khí tượng thủy văn và một trạm vô tuyến trên đảo Ba Bình (Itu-Aba). Như vậy, tính từ năm 1930-1938, chính quyền thực dân Pháp đã nhân danh An Nam (Việt Nam lúc bấy giờ) xác lập chủ quyền rõ ràng ở Hoàng Sa và Trường Sa.

Thứ Tư, 25 tháng 7, 2012

Căng thẳng ở Biển Đông ‘có thể thành xung đột’


Một tổ chức nghiên cứu quốc tế uy tín cảnh báo rằng tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông có thể leo thang thành xung đột bởi lực lượng vũ trang ngày một lớn mạnh của các nước trong khu vực.

Đường lưỡi bò trên bản đồ do Trung Quốc tự vẽ. Ảnh: VOV.
Đường lưỡi bò trên bản đồ do Trung Quốc tự vẽ. Ảnh: VOV.

Theo Nhóm Nghiên cứu Khủng hoảng Quốc tế (ICG) có trụ sở tại Brussel, Bỉ, triển vọng giải quyết các tranh chấp "dường như bị thu hẹp" sau khi 10 nước ASEAN mới đây họp mà chưa ra được một bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông.

"Không có được sự đồng thuận về cơ chế giải quyết, căng thẳng trên Biển Đông dễ dàng diễn biến thành xung đột vũ trang. Khi các nước ASEAN còn chưa thống nhất được chính sách về Biển Đông thì luật pháp và quy định sẽ không được tuân thủ", AFP dẫn lời ông Paul Quinn-Judge, giám đốc chương trình châu Á của ICG, cho biết.

Trong khi đó, các nước tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông đặc biệt là Trung Quốc không ngừng tăng cường sức mạnh Hải quân và lực lượng bảo vệ bờ biển trong bối cảnh tranh chấp, một phần do áp lực chính trị trong nước và chủ nghĩa dân tộc của người dân các nước này. Vì thế, theo ICG, sự việc có thể diễn biến căng thẳng hơn, không loại trừ nguy cơ đối đầu trên biển.

Philippines đầu tuần này tuyên bố sẽ mua sắm thêm máy bay và tàu chiến, trong khi Đài Loan (đảo thuộc Trung Quốc và cũng tự tuyên bố chủ quyền một số nơi ở Trường Sa) có kế hoạch mở rộng cơ sở quân sự, đưa súng cối và pháo cao xạ đến khu vực tranh chấp.

Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với gần như toàn bộ Biển Đông và thực hiện nhiều hoạt động rầm rộ tại đây, bất chấp sự phản đối của các nước láng giềng như Việt Nam và Philippines. Biển Đông là nơi Trung Quốc cùng các nước thành viên ASEAN là Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei có tuyên bố chủ quyền chồng lấn.

Tàu chiến lớn nhất của Philippines mới mua từ Mỹ, đã tham gia vụ chạm mặt với Trung Quốc ở bãi cạn Scarborough/Hoàng Nham hồi đầu tháng 4. Ảnh: AFP
Tàu chiến lớn nhất của Philippines mới mua từ Mỹ, đã tham gia vụ chạm mặt với Trung Quốc ở bãi cạn Scarborough/Hoàng Nham hồi đầu tháng 4. Ảnh: AFP

Báo cáo của ICG cho rằng Trung Quốc đang "tích cực khoét sâu" sự chia rẽ bên trong ASEAN bằng cách đối xử ưu tiên với một số thành viên ủng hộ quan điểm của Trung Quốc trong tranh chấp hiện nay.

"Sự thiếu đoàn kết giữa các nước đối thủ của Trung Quốc, cộng với những điểm yếu trong cơ chế đa phương của khu vực đang gây khó khăn cho việc tìm kiếm một giải pháp", báo cáo nhấn mạnh.

"Mọi xu thế hiện nay đang đi sai hướng, và triển vọng tìm ra giải pháp đang ngày càng biến mất".

Các nước láng giềng, như Việt Nam và Philippines, chỉ trích Trung Quốc làm cho tình hình Biển Đông thêm phức tạp. Một tiếng nói từ Mỹ của thượng nghị sĩ John McCain cũng cho rằng các hành động gần đây của Trung Quốc ở Biển Đông là khiêu khích một cách không cần thiết và không phù hợp với một cường quốc.

Thứ Hai, 23 tháng 7, 2012

Học giả Trung Quốc phân tích 5 tử huyệt trong lý lẽ về đường lưỡi bò


Tại sao sau khi nước Trung Quốc mới được thành lập, để thể hiện “tình cảm” của mình với Việt Nam, Trung Quốc lại tự xóa đi 2 đoạn trên bản đồ trong khu vực vịnh Bắc Bộ? Phải chăng Trung Quốc coi việc sửa đường biên giới quốc gia như trò đùa?

Ông Tiết Lý Thái - học giả, nhà bình luận nổi tiếng của trang báo mạng Phượng Hoàng (Hồng Kông, Trung Quốc) trong bài viết đăng trên tờ báo mạng trên ngày 20/7 cho rằng, tranh chấp chủ quyền tại Nam Hải (Biển Đông) giữa Trung Quốc và Việt Nam có dấu hiệu ngày càng căng thẳng trong thời gian qua, trong đó việc Tổng công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc (CNOOC) thông báo mời thầu quốc tế vào cuối tháng 6 vừa qua khiến tình hình càng thêm phức tạp.

9 lô dầu khí mà Tổng công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc thông báo mời thầu nằm ở phía Đông đường 9 đoạn, tuy nhiên nó lại nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển. 

Học giả Trung Quốc phân tích 5 tử huyệt trong lý lẽ về đường lưỡi bò
Học giả Trung Quốc phân tích 5 tử huyệt trong lý lẽ về đường lưỡi bò

Ông Tiết Lý Thái cho rằng: Nếu Trung Quốc giải thích và muốn cộng đồng quốc tế công nhận đường 9 đoạn là đường biên giới quốc gia thì khó khăn sẽ không hề nhỏ, ít nhất sẽ gặp phải những thách thức sau:

Thứ nhất, Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc mới đầu chỉ vẽ ra 11 đoạn trên bản đồ nước mình, mà không hề tiến hành phân định biên giới trên biển với các nước láng giềng xung quanh, cũng chưa từng có động thái hòng nhận được sự công nhận của cộng đồng quốc tế. Về bình diện luật pháp quốc tế cũng chưa có sự giải thích rõ ràng, chi tiết nào. Nói một cách nghiêm túc thì đây mới chỉ là “tự nói lời của mình”.

Thứ hai, cho đến hiện nay, Trung Quốc vẫn chưa nói rõ, đường 9 đoạn là đường biên giới quốc gia đứt khúc hay là đường giới tuyến trên biển truyền thống. Đến một định nghĩa cũng không có, hơn nữa cũng chưa ghi rõ kinh độ, vĩ độ trên vị trí địa lý, mà đơn thuần chỉ là vẽ ra các đường đứt đoạn trên bản đồ của mình, thì làm sao mà thuyết phục được người khác?

Thứ ba, nếu như Bắc Kinh nhấn mạnh đường 11 đoạn mà Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đưa ra ban đầu là đường biên giới quốc gia không thể xâm phạm, thì thử hỏi tại sao sau khi nước Trung Quốc mới được thành lập, để thể hiện “tình cảm” của mình với Việt Nam, Trung Quốc lại tự xóa đi 2 đoạn trên bản đồ trong khu vực vịnh Bắc Bộ? Phải chăng Trung Quốc coi việc sửa đường biên giới quốc gia như trò đùa?

Thứ tư, theo học giả này, nếu như Bắc Kinh khẳng định đường 9 đoạn là đường biên giới quốc gia, sau khi thống nhất đất nước vào năm 1975, trong thời gian 30 năm, Việt Nam đã chiếm hữu đến 30 hòn đảo lớn nhỏ một cách liên tục, mà Bắc Kinh trong các lần phản đối ngoại giao lại không hề có lần nào nêu ra vấn đề trên?. Điều này là hoàn toàn không bình thường.

Cuối cùng, Biển Đông là tuyến vận tải của hơn 80% hàng hóa chiến lược của khu vực Đông Bắc Á, trong đó bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, của hơn 40 % hàng hóa chiến lược của hầu hết các quốc gia phương Tây. Nếu như nói tuyến đường vận tải trên Biển Đông là tuyến đường sinh mạng của các quốc gia phương Tây cũng không có gì là quá.

Nếu "đường 9 đoạn" được tuyên bố là đường biên giới quốc gia của Trung Quốc, khi Mỹ và các đồng minh chuyển dịch lực lượng quân sự giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, bất cứ lúc nào, họ  đều có thể bị coi là ở vị trí phi pháp và sẽ bị cản trở mạnh mẽ. Như vậy liệu cộng đồng quốc tế có chấp nhận tuyên bố của Trung Quốc? 

Học giả Tiết Lý Thái cho rằng: ngày nay, cư dân mạng Trung Quốc không ngừng hô hào những luận điệu hiếu chiến trong thế giới ảo. Tuy nhiên sau khi thoát khỏi thế giới ảo, chúng ta phải trở về thế giới thực tại.

XUÂN DẦN (TIỀN PHONG ONLINE)

Thứ Ba, 17 tháng 7, 2012

Không còn là “tàu lạ”


Biết rõ mười mươi, thế mà vì “tế nhị”, báo chí cứ phải nói trại đi là “tàu lạ”. Bọn “lạ” này không như kiểu “hải tặc Somaly”, mà khoác áo ngư phủ, được trang bị vũ khí hiện đại để hoạt động trên biển, theo một kịch bản tổng thể đã được soạn sẵn nhằm thực hiện từng bước có bài bản tham vọng bành trướng.

Tàu cá ngư dân Việt Nam thường xuyên hoạt động trên vùng biển thuộc chủ quyền Tổ quốc
Tàu cá ngư dân Việt Nam thường xuyên hoạt động trên vùng biển thuộc chủ quyền Tổ quốc

Ấy thế mà báo chí ta, để không muốn làm xấu thêm tình hình, đã dằn lòng gọi những kẻ xâm phạm chủ quyền đất nước bắt giữ tàu thuyền, hành hung, ngược đãi và đòi tiền chuộc ngư dân ta là “tàu lạ”. Cho dù biết rằng “tàu thì “lạ”, nhưng “bụng dạ thì lại quá quen”, chúng ta vẫn cứ phải nhẫn nhịn vì “đại cuộc” theo đúng nghĩa.

Và rồi khi họ công khai ngang ngược tuyên bố mời thầu quốc tế dầu khí tại 9 lô hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của ta, được luật pháp quốc tế công nhận. Nói nôm na, đây là kiểu “chia lô, bán nền trên cái sân nhà của người hàng xóm” thì cùng với “cái lưỡi bò” ham hố thè ra muốn liếm trọn biển Đông, bộ mặt thật của họ đã phơi ra. Thế mà, vừa ăn cướp vừa la làng. Tờ “Thời báo Hoàn Cầu” (Trung Quốc) lại lu loa “Việt Nam tạo sóng ở Biển Đông”, rồi đe dọa “mũi giáo và đối tượng chính cần nhằm vào là Việt Nam”. Theo báo “Tin Tức Trung Quốc”, 30 chiếc tàu, mỗi chiếc có trọng tải từ 140 tấn trở lên xuất phát từ cảng Tam Á, chia thành hai biên đội đang tiến đến khu vực gần đảo Đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, vùng biển Trường Sa. Thế là không còn “tàu lạ” nữa nhé!

Mấy ngày qua, trước áp lực quốc tế với những tín hiệu được phát ra, những toan tính của họ đã lộ mặt và bị lên án, túng phải tính, “Thời báo Hoàn Cầu” đã ngang ngược nói càn: “Việt Nam đã thừa nhận mô hình phát triển của Trung Quốc” và vì thế “Hà Nội sẽ đớn đau vì giúp Mỹ quay lại” cho nên “con đường sống còn duy nhất cho Việt Nam là phối hợp với Trung Quốc nhằm hạn chế chính sách can dự của Mỹ tại châu Á”. Vậy là rõ.

“Họa trung hữu phúc”, trong cái họa có cái may. Nhân dân ta đã thấy rõ hơn diện mạo của kẻ đã từng lên giọng đạo cao đức trọng với những lời đường mật lừa mị. Những lời tế nhị và nhẫn nhịn đầy thiện chí của ta khác xa những hành xử ngang ngược, công khai xâm phạm chủ quyền quốc gia của ta, chà đạp lên luật pháp quốc tế của một số thế lực hiếu chiến ở Trung Quốc.

Hai từ “tàu lạ”, vì thế, nên đưa vào bảo tàng để con cháu ta sau này biết được rằng ông cha chúng từng linh hoạt, mềm dẻo trong sách lược ngoại giao, nhưng luôn đầy đủ bản lĩnh và khí phách trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.

Trước sau như một, nhân dân ta không mong muốn gì hơn được làm bạn thật sự với người láng giềng khổng lồ, tôn trọng tình hữu nghị với nhân dân Trung Quốc, minh bạch và công khai trong hòa bình trao đổi để có giải pháp hợp lý hợp tình, phù hợp với luật pháp quốc tế, đồng thời mài sắc tinh thần cảnh giác, nung nấu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, đặc biệt đối với thế hệ trẻ.

Thứ Năm, 12 tháng 7, 2012

Hoàn Cầu xuyên tạc bài phỏng vấn về biển Đông như thế nào?


Thời báo Hoàn Cầu (Trung Quốc) đã cố tình cắt xén ý kiến chuyên gia quốc tế nhằm ngụy tạo các ý kiến ủng hộ cho các hành động ngang ngược của nước này trong tranh chấp.
Ông Robert C Beckmand.
Ông Robert C Beckmand.
Thời báo Hoàn Cầu đã có buổi phỏng vấn với ông Robert C Beckmand, Giám đốc Trung tâm Luật pháp quốc tế CIL, ĐH Quốc gia Singapore về một số vấn đề tranh chấp trên biển Đông. Bài viết có tiêu đề: “Trung Quốc từng bước di chuyển vào biển Nam Trung Hoa (biển Đông)".
Tuy nhiên, sau khi thực hiện buổi phỏng vấn này, Thời báo Hoàn Cầu đã cố tính bóp méo câu trả lời của ông Robert C Beckmand bằng cách sửa lại hoặc đăng không đầy đủ câu trả lời của ông Robert C Beckmand. Trong đó có đoạn, ông Robert C Beckmand khẳng định: "Luật biển Việt Nam vừa được Quốc hội Việt Nam thông qua là một việc làm hoàn toàn phù hợp với quyền và nghĩa vụ của Việt Nam theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển UNCLOS năm 1982".
Trong bài phỏng vấn ông Beckmand cũng cho rằng, việc Tổng công ty CNOOC (Trung Quốc) công bố mời thầu quốc tế 9 lô dầu khí trên vùng biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam hoàn toàn trái với Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982.
Trả lời báo Đất Việt, ông Beckman khẳng định, Thời báo Hoàn Cầu đã chỉnh sửa hầu hết các câu trả lời của ông. Đồng thời, ông Beckman hoan nghênh việc đính chính.
Trích thư trả lời Báo Đất Việt của ông Robert C Beckmand: ..."However, the Global Times edited out most of my responses to their questions. You are welcome to do an article based my responses to their questions, which are set out below".
Trích thư trả lời Báo Đất Việt của ông Robert C Beckmand: ..."However, the Global Times edited out most of my responses to their questions. You are welcome to do an article based my responses to their questions, which are set out below".
Để giúp độc giả thấy rõ sự can thiệp của Thời báo Hoàn Cầu đối với ý kiến chuyên gia quốc tế, Đất Việt xin đăng tải lại phần trả lời nguyên bản của ông Robert C Beckmand.
Dưới đây là nội dung các câu trả lời của ông Robert C Beckmand (với phần in nghiêng bị chỉnh sửa hoặc cắt bỏ):
- Thời báo Hoàn Cầu: Ông có xem các báo cáo của Bộ Quốc phòng Trung Quốc như là một dấu hiệu mạnh mẽ và quyết tâm của Trung Quốc để bảo vệ “chủ quyền” hàng hải đối với các hành động khiêu khích từ các nước láng giềng, đặc biệt sau khi Việt Nam thông qua luật tuyên bố quyền tài phán đối với hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa? (cách Trung Quốc gọi tên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam - ĐV)
- Ông Robert C Beckmand: Tôi thấy Trung Quốc đang hành động ngày càng quyết đoán hơn đối với tuyên bố của mình ở biển Đông. Theo quan điểm của tôi có một số hiểu lầm liên quan đến pháp luật về biển gần đây được thông qua bởi Quốc hội Việt Nam. Mục tiêu chính của bộ luật này, theo tôi hiểu, là xây dựng luật pháp quốc gia phù hợp với quyền và nghĩa vụ của Việt Nam theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982.
Thực tế các quy định trong bộ luật mới này gồm việc khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa không phải là một điều bất ngờ và đó không phải là một sự phát triển mới. Việt Nam đã chính thức tuyên bố chủ quyền đối với hai quần đảo này trong nhiều năm trong các ghi chú ngoại giao chính thức đã ký với Tổng thư ký Liên Hợp Quốc. Ngoài ra, cũng có tuyên bố chủ quyền khác của Trung Quốc và Phillippines quy định trong pháp luật của họ đối với các quần đảo và đảo trên biển Đông.
- Thời báo Hoàn Cầu: Bên cạnh việc thành lập Tam Sa và các báo cáo của Bộ Quốc phòng, Tổng công ty CNOOC công bố mời thầu quốc tế 9 lô dầu khí trên biển Nam Trung Hoa (cách Trung Quốc gọi tên biển Đông - ĐV). Có ý kiến cho rằng, Trung Quốc sử dụng nó như công cụ để giải quyết các tranh chấp, quan điểm của ông về vấn đề này là gì?
- Ông Robert C Beckmand: Việc thành lập Tam Sa và tuyên bố mời thầu quốc tế của CNOOC cho thấy Trung Quốc đang làm phức tạp thêm các tranh chấp trong khu vực.
(Trong khi đó, bài viết của báo Hoàn Cầu lại nói rằng, “ông Beckman coi hành động của Trung Quốc là một bước ngoặt, là một bước đi để khẳng định những tuyên bố của mình”. Thời báo Hoàn Cầu cũng không quên cắt bỏ đoạn ông Beckman nói rằng, đường lưỡi bò gồm 9 đoạn của Trung Quốc là quá xa so với bất kỳ hòn đảo nào của nước này và không dựa vào bất kỳ cơ sở pháp lý nào - ĐV).
- Thời báo Hoàn Cầu: Chính phủ Việt Nam đã phản đối thành lập Tam Sa và tuyên bố của CNOOC. Ông có cho rằng Việt Nam có khả năng để khởi động các biện pháp đối phó nhiều hơn nữa với các bước đi của Trung Quốc.
- Ông Robert C Beckmand: Họ (Việt Nam) chắc chắn sẽ thách thức tính hợp pháp đối với các tuyên bố của Trung Quốc như một hành vi xâm phạm chủ quyền của họ đối với tài nguyên thiên nhiên trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Tuyên bố của Việt Nam là phù hợp với Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982.
(Phần trả lời khẳng định sự phi lý của việc CNOOC công bố mời thầu 9 lô dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam tiếp tục bị biên tập viên của báo Hoàn Cầu loại ra khỏi bài viết - ĐV).
Trong khi đó, Thời báo Hoàn Cầu chỉ đăng một phần cầu trả lời với nội dung như sau: “Tôi hy vọng Việt Nam sẽ tiếp tục thực hiện các hoạt động thăm dò dầu khí, các tranh chấp trong khu vực không làm tăng nguy cơ xung đột vũ trang”.
Sự việc báo Hoàn Cầu bóp méo các câu trả lời của chuyên gia quốc tế về biển Đông nhằm cố tình đánh lừa độc giả rằng, Luật Biển Việt Nam, tuyên bố phản đối việc mời thầu của CNOOC là những hành động mang tính khiêu khích chứ không phải là một việc làm hoàn toàn hợp pháp và chính đáng theo Công ước Luật biển Quốc tế UNCLOS.
Đối với báo chí, việc bóp méo câu trả lời của chuyên gia quốc tế được coi là một hành vi thiếu tôn trọng người được phỏng vấn, đi ngược với phương châm của người làm báo là cung cấp thông tin cho độc giả một cách chính xác và trung thực. Điều này một lần nữa cho thấy sự phi lý và ngang ngược của Trung Quốc đối với các hành động của họ trên biển Đông.
Ông Robert C Beckmand còn là người đứng đầu chương trình Luật và chính sách hải dương và đứng đầu dự án nghiên cứu của CIL về cáp ngầm, luật biển và tội phạm hàng hải quốc tế tại châu Á.
QUỐC VIỆT (ĐẤT VIỆT ONLINE)

Thứ Hai, 2 tháng 7, 2012

Quốc tế phản bác ‘lưỡi bò’ Trung Quốc ở Biển Đông


Theo giới học giả và chính khách quốc tế, Trung Quốc không có cơ sở để tuyên bố “đường lưỡi bò” và các nước trên thế giới không thể chấp nhận đòi hỏi vô lý này.

Tại Hội thảo An ninh Biển Đông diễn ra ở thủ đô Washington của Mỹ cuối tuần qua, bên cạnh việc khẳng định Trung Quốc đã mời thầu thăm dò-khai thác tại 9 lô dầu khí nằm trong Vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, các học giả quốc tế còn cho rằng Trung Quốc không có cơ sở để tuyên bố “đường lưỡi bò” trên Biển Đông và các nước trên thế giới không thể chấp nhận tuyên bố đó. 

"Đường lưỡi bò" tham lam liếm hầu hết Biển Đông.
"Đường lưỡi bò" tham lam liếm hầu hết Biển Đông. 

Giáo sư Carlyle Thayer, thuộc Học viện Quốc phòng Australia, cho rằng “đường lưỡi bò” do Trung Quốc vẽ ra vào năm 1948 và việc Trung Quốc chính thức tuyên bố vào năm 2009 không tuân theo luật  pháp quốc tế. Ông Thayer nói: “Các chuyên gia luật pháp khi nhìn vào bản đồ do Trung Quốc nộp cho LHQ năm 2009 thấy rằng nó không phù hợp với cách vẽ bản đồ thông thường, hay thậm chí tuân theo cơ sở lịch sử. 

Theo luật pháp quốc tế, đất liền chi phối biển, bởi vậy tuyên bố chủ quyền trên biển phải dựa vào đất liền. Ví dụ bờ biển Việt Nam là đất liền thì Việt Nam có thể tuyên bố chủ quyền 200 hải lý. Nhưng trường hợp của Trung Quốc là không rõ ràng. Chúng ta không thể hiểu ‘đường lưỡi bò’ đó đại diện cho cái gì? Nó chỉ là những đường đứt đoạn được thể hiện trên bản đồ. 

Cách vẽ đường lưỡi bò không phù hợp với cách vẽ bản đồ quốc tế chuẩn và tuyên bố chủ quyền của Trung quốc không phù hợp với luật quốc tế. ‘Đường lưỡi bò’ được vẽ ra trước khi có Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển và nó cũng không liên quan gì với công ước này”. 

Thượng nghị sỹ Joe Liberman cho rằng chính sách của Trung Quốc tại khu vực Biển Đông thiếu cơ sở rõ ràng dựa theo luật pháp quốc tế, gây ra sự nghi ngờ và có thể dẫn đến những tính toán sai lầm. Đây cũng chính là điều khiến cho Trung Quốc có thể sẽ ngày càng bị cô lập hơn trong khu vực cũng như trên thế giới. TNS Liberman nói:

“Những đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc tại  Biển Đông là quá đáng. Đó là hành động gây hấn đầu tiên khiến các nước khác buộc phải hành động. Đó chính là lý do tại sao tôi hy vọng Trung Quốc cần phải dừng lại và không có thêm hành động nào thì mới có thể giúp giải quyết được các tranh chấp này”. 

Theo Thượng nghị sỹ John McCain, Trung Quốc đã tuyên bố đường 9 đoạn (đường lưỡi bò) và cho rằng khu vực Biển Đông là thuộc về lãnh thổ của Trung Quốc. Đó là một tuyên bố không đúng. Khu vực Biển Đông là khu vực lãnh hải quốc tế. 

Chính vì thế mà tất cả các bên đều mong muốn có sự thương lượng hòa bình giữa Trung Quốc với các nước trong khu vực để giải quyết tranh chấp này một cách hòa bình. Thời gian gần đây, trong khu vực này đã diễn ra xung đột, căng thẳng tăng lên. Những căng thẳng đó cần phải được loại bỏ và đàm phán chính là câu trả lời cho vấn đề này.  

Giáo sư Marvin Ott của Đại học Johns Hopkins cho rằng Trung Quốc đang bỏ rất nhiều công sức, thậm chí cả uy tín của mình để biện hộ một tuyên bố chủ quyền không hợp pháp. Ngay cả các nước không có dính dáng đến tranh chấp tại khu vực Biển Đông cũng không thể đồng ý với tuyên bố “đường lưỡi bò” của Trung Quốc. 

Giáo sư  Marvin Ott nói: “Các luật sư, học giả, chuyên gia ở các nước khác, bất kỳ ai nhìn vào tuyên bố này đều cho rằng đường 9 đoạn của Trung Quốc không có tính hợp pháp dựa theo luật pháp quốc tế. Không có một nước lớn nào trên thế giới có thể ủng hộ đòi hỏi này: Mỹ không thể ủng hộ, Ấn Độ không thể ủng hộ, Cộng đồng châu Âu không ủng hộ, Australia không ủng hộ, Nhật Bản không ủng hộ…Không có nước nào ủng hộ  tuyên bố này của Trung Quốc”.

Tại Hội thảo An ninh Biển Đông ở Washington, Tiến sỹ Wu Shicom, Chủ tịch Viện Nghiên cứu Quốc gia Trung Quốc về Biển Đông nói rằng, hiện ở Trung Quốc tồn tại tới 4 khái niệm khác nhau về “đường chín đoạn”. Ngoài ra, tiến sỹ Kuen-chen Fu, khoa Luật thuộc Trường đại học Shanghai Jiaotong của Trung Quốc, cũng thừa nhận hiện có rất nhiều người, trong đó có người dân Trung Quốc, hiểu nhầm về “đường chín đoạn” (đường lưỡi bò). 

Giáo sư Carlyle Thayer cho rằng có quá nhiều điều cần phải bàn về “đường lưỡi bò” của Trung quốc. Tuy nhiên, Hội thảo về An ninh Biển Đông do Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế tổ chức tại Mỹ là một cơ hội để cho các học giả của Trung Quốc thể hiện quan điểm của mình, nghe các học giả quốc tế phản biện và phê phán những tuyên bố của Trung Quốc tại khu vực. 

Theo Giáo sư Carlyle Thayer, hội thảo sẽ giúp các học giả Trung Quốc hiểu hơn về điều này để khi họ quay về nước có những giải thích rõ ràng cho chính phủ và người dân về tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc.

Thứ Năm, 14 tháng 6, 2012

Tướng Trung Quốc đề nghị xét lại quan điểm gác tranh chấp?


Ngày 17/5 tại Bắc Kinh, Báo Văn hối Hồng Kông đã tổ chức buổi tọa đàm về vấn đề Biển Đông, gồm 6 ông tướng “văn phòng” Trung Quốc tham gia. Họ cho rằng: Đối với chủ trương “gác tranh chấp, cùng khai thác” lâu nay của Trung Quốc cần phải xem xét lại.
Đây là một sách lược lớn của ông Đặng Tiểu Bình, vậy tại sao lại có sự đề xuất từ những vị tướng “diều hâu” này?
Bất kỳ ai trên thế giới, kể cả những người dân Trung Quốc có lòng tự trọng, nhìn cái đường “lưỡi bò” mà Trung Quốc vẽ trên Biển Đông đều có cảm giác hết sức “ngứa mắt” và cũng nhận rõ nhân cách, đạo đức của tác giả đường “lưỡi bò” này: Bành trướng, tham lam vô độ; cậy lớn hiếp bé, ngang ngược, bất chấp luật lệ.
Dân tộc Trung Hoa từ xưa cho đến thời kháng Nhật, hoặc chấp nhận bị người khác khuất phục hoặc đi khuất phục người khác. Bởi thế, nói là Trung Quốc vĩ đại, đông dân nhất trên thế giới, nhưng vẫn bị kẻ khác thống trị. Lịch sử chiến công quật cường chống xâm lược của họ là khiêm tốn.
Với cái đường lưỡi bò tự vạch ra trên Biển Đông, Trung Quốc đang bị hầu hết các nước trong khu vực phản đối.
Với cái đường lưỡi bò tự vạch ra trên Biển Đông, Trung Quốc đang bị hầu hết các nước trong khu vực phản đối.
Tôn Vũ tác giả “Binh pháp TônTử” mà người Trung Quốc rất tôn thờ, cho rằng “Một quân đội nhỏ yếu mà liều lĩnh cố đánh sẽ bị kẻ địch lớn mạnh bắt làm tù binh” và phương pháp dùng binh, “có binh lực gấp 10 lần địch thì bao vây, gấp 5 lần địch thì tiến công, gấp hai lần địch thì chia cắt, binh lực ngang nhau thì phải biết đánh, binh lực ít hơn thì phải biết lánh, binh lực yếu hơn thì phải biết tránh cho xa”.
Tư tưởng này có nhiều điều, nhưng có một điều cốt lõi cần ghi nhớ là: Đã yếu, ít, thì chịu phận làm thân cừu ngựa, chống lại chỉ có chết.
Hình như người Trung Quốc áp dụng rất triệt để điều này…cho nên, “Trung Quốc trong thời kỳ chống Nhật, vùng căn cứ địa Giao Đông chỉ có bảy, tám tên lính Nhật vác cờ mặt trời đi càn, ba bốn chục nghìn quân dân căn cứ địa bỏ chạy hết.”
Hoặc “chỉ có gần 100 lính Nhật là đủ để áp giải 50.000 tù binh của quân Quốc Dân đảng tới Yến Tử Cơ (địa danh thuộc tỉnh Giang Tô, Trung Quốc) xử bắn. Chưa nói đến phản kháng, ngay đến dũng khí bỏ chạy, các tù binh này cũng chẳng có”. Hay “chỉ cần một tên Nhật thì cũng cai quản một huyện ở Trung Quốc…”
Tất cả những dẫn chứng đó, ông Trung tướng Không quân Trung Quốc Lưu Á Châu nêu ra để mô tả nét văn hóa tính cách: tê liệt ý chí phản kháng trước kẻ mạnh, sợ kẻ mạnh như cừu sợ sói.
Trong khi đó, với các nước nhỏ láng giềng, khi Trung Quốc cảm thấy mình mạnh là ý đồ bành trướng lại nổi lên, muốn đi khuất phục người khác. Với kẻ yếu, thậm chí với cả dân tộc mình thì hành xử rất ngang ngược.
Người Việt Nam thì hoàn toàn ngược lại. Không đi khuất phục kẻ khác và kiên quyết không chịu để kẻ khác khuất phục. Bởi vậy, lịch sử chống ngoại xâm của Việt Nam oanh liệt, có những chiến công “chấn động địa cầu” là vậy.
Ông Tôn Vũ cũng đã dạy cho con cháu quân sự Trung Quốc rằng: Biết địch, biết ta, trăm trận trăm thắng”. Nhưng điều này thì con cháu, hậu duệ ít ai nghe ông.
Họ chủ yếu “biết ta” và “suy bụng ta ra bụng người” mà hành động. Họ không bao giờ chịu hiểu người Việt Nam, cứ tưởng giống văn hóa tính cách của họ, cho nên, từ xưa tới nay họ hành xử chủ quan và kết quả ra sao thì lịch sử đã chứng minh quá rõ.
Người Việt Nam khác người Trung Quốc. Không cần biết ai là cọp, ai là sư tử, hể xâm lược Việt Nam là “còn cái lai quần cũng đánh”. Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Đánh cho khi nào thắng thì thôi. Cho nên muôn đời, quân xâm lược nuốt Việt Nam không trôi là vậy và đương nhiên, Việt Nam mới như ngày nay.
Đường lưỡi bò”, còn gọi là “đường chữ U” hay “đường chín đoạn” được Trung Quốc chính thức đưa ra trong hai công hàm của phái đoàn thường trực nước CHDCND Trung Hoa gửi Liên Hợp quốc ngày 7/5/2009 khi phản đối Báo cáo chung Việt Nam – Malaysia và Báo cáo riêng của Việt Nam về ranh giới ngoài thềm lục địa. Bản đồ “đường lưỡi bò” đính kèm công hàm của phía Trung Quốc cho thấy nó chiếm đến 80% diện tích Biển Đông.
Phía Trung Quốc cho rằng “theo bản đồ đính kèm, Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo trong vùng biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) và các vùng nước liền kề, và có quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng nước liên quan cũng như đáy biển của các vùng.
Trước đó, dựa trên luật 1998 về vùng đặc quyền kinh tế mà Trung Quốc ban hành, năm 2002 Trung Quốc tiếp tục ban hành đạo luật cấm các nước khác khảo sát đo đạc trong EEZ.
Thực chất đây là điều mà Trung Quốc muốn biến vùng EEZ thành vùng đặc quyền quân sự mà theo đó bất kỳ tàu thuyền quân sự nào cũng không được qua lại trong vùng EEZ đó.
Như vậy, nếu khi đường “lưỡi bò” được thực thi, thì 4 quốc gia Việt Nam, Philippines, Malaysia, và Brunei chỉ cần “bước chân xuống biển” là phải xin phép Trung Quốc…
Vậy, có gì là sai khi nói rằng Trung Quốc ngang ngược, cậy lớn hiếp bé?
Trung Quốc nói, đó là “chủ quyền không thể chối cãi”, vậy tại sao lại sợ như cú sợ ban ngày, khi đưa vấn đề đó ra cho mọi người bình xử, dựa trên UNCLOS mà họ là thành viên, giải quyết theo nguyên tắc đa phương?
Phải chăng Trung Quốc chỉ muốn “cãi” nhau với từng nước riêng lẻ để dễ bề trấn áp, bắt nạt theo kiểu “ cả vú lấp miệng em”, chỉ giải quyết theo nguyên tắc song phương?
Ngày 17/5 tại Bắc Kinh, Báo Văn hối Hồng Công đã tổ chức buổi tọa đàm về vấn đề Biển Đông, gồm 6 ông tướng “văn phòng” Trung Quốc tham gia. Họ cho rằng: Đối với chủ trương “gác tranh chấp, cùng khai thác” lâu nay của Trung Quốc cần phải xem xét lại.
Đúng là phải xem lại.
Các quốc gia trong Hiệp hội ASEAN, không một quốc gia nào “cùng khai thác” với Trung Quốc cả. Tại sao vậy?
Thứ nhất, mấy ông tướng kia đưa ra vấn đề này nghe có vẻ mỵ dân Trung Quốc, đổ tội cho các nước có tuyên bố tranh chấp với Trung Quốc là thiếu tính xây dựng, hiếu chiến, “bắt nạt” Trung Quốc, trong khi Trung Quốc thì hòa bình thân thiện chìa tay ra đề nghị “gác lại để cùng khai thác”.
Thực ra, sách lược của ông Đặng còn 3 chữ đằng trước nữa là: “Chủ quyền của ta, gác tranh chấp, cùng khai thác”, mà mấy ông tướng cố tình lờ đi. Nếu chấp nhận “cùng khai thác” thì có nghĩa khó có thể công nhận chủ quyền của Trung Quốc nơi khu vực đang trang chấp. Chẳng lẽ có quốc gia nào tự đưa đầu vào rọ thế sao?
Thứ hai, Trung Quốc dùng sách lược biến vùng không tranh chấp thành vùng tranh chấp, mà yêu sách đường “lưỡi bò” chính là hành động để thực hiện thủ đoạn trên, hù dọa, ép “cùng khai thác” thì ai nghe, ai chấp nhận cách hành xử trắng trợn ngang ngược như vậy được.
Đúng là phải xem lại, bởi đây không phải là một đề nghị mang tính hòa bình, hữu nghị, vì lợi ích chung mà một sự ép buộc, trấn áp, sau khi đã hành động ngang ngược, hù dọa dùng vũ lực, bị các nước trong khu vực lật tẩy và phản đối quyết liệt.
Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, “gây ra tranh chấp để cùng khai thác” có lẽ là một sách lược đúng. Trên bãi cạn Scarborough, dù Trung Quốc có coi Philipines như “con muỗi” đi nữa thì cũng không thể chiếm trọn bãi cạn ấy được, phải đi đến giải pháp “cùng khai thác” mà thôi.
Sáu ông tướng nói trên cho rằng: “Tình hình hiện nay đã thay đổi, “thế hệ chúng ta cần phải có sự đóng góp, cần phải thể hiện sự dám làm và trí tuệ”, “vấn đề Biển Đông không thể cứ kéo dài mãi. Nếu cứ để kéo dài, rất có khả năng Trung Quốc sẽ mất đi chủ quyền đối với một diện tích lớn tại Biển Đông, mất đi cơ nghiệp của tổ tông, trở thành “thiên cổ tội nhân” của dân tộc Trung Hoa”…
Quả thật, tướng “văn phòng” nói hay và chỉ huy tác chiến trên…”văn phòng” và trên CCTV giỏi thật. Các tướng chỉ huy, tham mưu Trung Quốc thực thụ, nghe được không nổi cáu lên mới chuyện lạ.

Thứ Tư, 6 tháng 6, 2012

Trung Quốc sáng tác lịch sử để chiếm Biển Đông


Khi không có chứng cứ địa lý, người Trung Quốc “viết lại lịch sử” để hậu thuẫn cho những đòi hỏi chủ quyền phi lý ở Biển Đông.

Hành động này không chỉ khiến cho những người trong cuộc mà còn khiến cho giới học giả nước ngoài cũng cảm thấy “chướng tai, gai mắt”.

Báo Mỹ: TQ sáng tác lịch sử để chiếm Biển Đông
Báo Mỹ: TQ sáng tác lịch sử để chiếm Biển Đông

Trong bài “China’s Invented History” đăng trên tờ The Wall Street Journal ngày 5/6, nhà báo Philip Bowring viết rằng Bắc Kinh đang bịa đặt lịch sử để biện minh cho những đòi hỏi bành trướng ở những vùng biển tranh chấp.

Cuộc xung đột giữa Phillippines và Trung Quốc về Scarborough dường như chỉ là một tranh chấp nhỏ đối với một bãi đá ngầm không có người ở, giữa biển cả mênh mông. Nhưng cuộc tranh chấp này lại cực kỳ quan trọng đối với các mối quan hệ trong tương lai của khu vực bởi vì nó bộc lộ quan điểm ngoan cố của Trung Quốc là lịch sử của các nước khác vốn đường ranh giới chiếm tới 2/3 chu vi của Biển Đông là phi lý. Chỉ có lịch sử do người Trung Quốc viết và được Bắc Kinh diễn giải mới là đúng đắn.

Trường hợp tuyên bố chủ quyền của Philippines đối với bãi đá ngầm Scarborough được chủ yếu trình bày dưới góc độ địa lý học. Scarborough mà phía Philippines gọi là Panatag Shoal trong khi Trung Quốc gọi là đảo Hoàng Nham là một bãi ngầm ngoài khơi cách bờ biển Luzon, đảo lớn nhất trong quần đảo Philippines 130 hải lý.
Scarborough nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển, vùng đặc quyền kinh tế của Philippines rộng 200 hải lý tính từ bờ biển Luzon. Trong khi đó Scarborough cách thềm lục địa Trung Quốc 300 hải lý và cách đảo Đài Loan 300 hải lý.

Bắc Kinh tìm mọi cách phủ nhận những thực tế địa lý của bãi đá ngầm Scarborough và dựa vào những bịa đặt lịch sử để áp dụng cho mọi đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc đối với hầu hết Biển Đông. Đó là lý do tại sao Trung Quốc không chỉ mâu thuẫn với Philippines mà còn với các quốc gia khác có liên quan đến Biển Đông.

Bản đồ chín đoạn (hay còn gọi là "đường lưỡi bò") khét tiếng xác định chủ quyền của Trung Quốc trùm lên các khu vực đặc quyền kinh tế 200 hải lý trên Biển Đông của cả Malaysia, Philippines, Việt Nam, Brunei và sát với vùng biển Natuna được đánh giá rất giàu tiềm năng khí đốt của Indonesia.

Trong trường hợp bãi đá ngầm Scarborough, Bộ Ngoại giao Trung Quốc dẫn “bằng chứng lịch sử” trong bản đồ Trung Quốc hồi thế kỷ 13, khi Trung Quốc đang bị người Mông Cổ thống trị. Tấm bản đồ này xuất phát từ một chuyến đi của một tàu của Nhà Nguyên thời đó. Lập luận người Trung Quốc là “người đầu tiên” đi lại trên Biển Đông là cực kỳ phi lý.

Đoàn thủy thủ Trung Quốc là những người đến sau ở Biển Đông, chứ nói gì đến hoạt động thương mại trên Ấn Độ Dương. Lịch sử đi biển của khu vực Biển Đông bắt đầu sớm nhất từ thiên niên kỷ đầu tiên và là lịch sử đi biển của tổ tiên những người Malaysia, Philippines và Việt Nam.

Khi những người Trung Quốc cổ đại muốn đến khu vực Sumatra và sau đó đến Sri Lanka, họ phải đi trên các tàu của người Malay (Mã Lai). Điều này không có gì đáng ngạc nhiên vì người Malay (tổ tiên của người Indonesia ngày nay) từng chiếm lĩnh Madagascar, hòn đảo lớn thứ ba thế giới. Họ đã vượt qua Ấn Độ Dương từ hơn 1000 năm trước, sớm hơn rất nhiều chuyến đi của đô đốc Trịnh Hòa nhà Minh hồi thế kỷ 15.

Khả năng vượt biển của người Malay sau này không bằng người Nam Ấn và người Arập, nhưng họ vẫn là những người đi biển hàng đầu ở Đông Nam Á cho đến khi thực dân châu Âu thống trị khu vực này.

Những người Chăm nói ngôn ngữ Malay và theo đạo Hindu ở miền Trung Việt Nam đã thống trị hoạt động thương mại trên Biển Đông, cho đến khi họ bị người Việt chinh phục vào thời điểm các thương nhân châu Âu bắt đầu tìm đến châu Á.

Hoạt động thương mại của Vương quốc Champa và đảo Luzon đã có từ rất lâu trước khi người Trung Quốc vẽ tấm bản đồ hồi thế kỷ 13.

Bãi đá Scarborough không chỉ nằm gần bờ biển Luzon, Philippines mà còn nằm trên tuyến hàng hải trực tiếp từ vịnh Manila đến các cảng biển của người Chăm (Việt Nam) hồi đó là Hội An, Quy Nhơn – vốn khá quen thuộc đối với các thủy thủ người Malay cổ đại

Một yếu tố bất hợp lý khác trong đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc đối với bãi đá ngầm Scarborough là dựa vào Hiệp ước Paris năm 1898. Hiệp ước này chuyển giao chủ quyền của Tây Ban Nha đối với quần đảo Philippines cho Mỹ, vẽ đường thẳng trên bản đồ và để bãi đá Scarborough bên ngoài đường kinh tuyến.

Trung Quốc hiện bám lấy thỏa thuận giữa hai cường quốc nước ngoài thống trị Philippines - hoàn toàn không đếm xỉa đến lợi ích của Philippines – để tuyên bố rằng Manila không có chủ quyền đối với Scarborough.

Trớ trêu là Trung Quốc lại phản đối “các điều ước quốc tế bất bình đẳng” do thực dân phương Tây đưa ra như trường hợp đường ranh giới McMahon phân chia biên giới giữa Ấn Độ và Tây Tạng. Điều đó có nghĩa là Việt Nam hoàn toàn có đủ căn cứ để tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa bởi vì người Pháp trước đây khi chiếm đóng Việt Nam đã từng tuyên bố chủ quyền đối với các quần đảo này và Việt Nam ngày nay kế thừa tuyên bố chủ quyền đó của người Pháp.

Trung Quốc luôn khẳng định Philippines là không hợp lệ. Nói cách khác, Trung Quốc đang sử dụng thực tế Philippines bị nước ngoài thống trị làm cơ sở cho tuyên bố chủ quyền của họ.

Manila muốn giải quyết tranh chấp theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển, nhưng Bắc Kinh cho rằng tuyên bố chủ quyền mà Trung Hoa dân quốc (chế độ đã bị họ đánh đuổi khỏi Hoa lục) đưa ra năm 1932 không bị ràng buộc bởi Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển.

Nhà báo Philip Bowring tái khẳng định Trung Quốc đang ra sức khẳng định chủ quyền đối với Biển Đông bằng cách viết lại lịch sử mà không hề xem xét yếu tố địa lý.

Thứ Bảy, 26 tháng 5, 2012

Biển Đông: Trung Quốc một mình một ngư trường?


Không còn ngư dân nào của Philippines ở khu vực bãi đá cạn Scarborough/Hoàng Nham trên Biển Đông, trong khi tàu cá và ngư dân Trung Quốc vẫn tiếp tục phớt lờ lệnh cấm đánh bắt cá ở khu vực này, hãng tin Philstar của Philippines hôm nay (25/5) đưa tin.

Biển Đông: Trung Quốc một mình một ngư trường?
Biển Đông: Trung Quốc một mình một ngư trường?

Philstar hôm nay dẫn lời quan chức cấp cao Masinloc – ông R-Jay Bautista cho biết, bởi vì Cục Thuỷ Hải sản Philippines (BFAR) đã ban bố lệnh cấm đánh bắt cá ở bãi đá Scarborough/Hoàng Nham nên ngư dân nước này đã chuyển hướng đánh cá sang các khu vực khác.

“Ngư dân của chúng tôi đã không còn đánh cá trên khu vực này nữa bởi vì lệnh cấm đánh bắt cá đã được BFAR ban bố,” ông Bautista cho biết, đồng thời thêm rằng hiện chỉ còn có ngư dân Trung Quốc đang “hưởng thụ” nguồn thuỷ sản dồi dào ở bãi đá tranh chấp này.

Theo cáo buộc của Philippines, hiện đang có 5 tàu lớn của chính phủ Trung Quốc và hàng chục tàu cá vẫn đang “lởn vởn” ở khu vực tranh chấp này. Có nhiều báo cáo cho rằng các ngư dân Trung Quốc vẫn tiếp tục đánh bắt và khai thác một lượng chai và san hô khổng lồ trên vùng lãnh hải của Philippines. Các động thái trên của phía Trung Quốc đã khiến Philippines hết sức phẫn nộ.

Trước đó, hồi giữa tháng 5, Trung Quốc thông báo, nước này sẽ áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá ở nhiều khu vực trên Biển Đông, trong đó có bãi cạn Scarborough. Đây không phải là lần đầu tiên giới lãnh đạo Trung Quốc đưa ra lệnh cấm đánh bắt cá ở Biển Đông. Từ năm 1999, cứ đều đặn hàng năm, Trung Quốc đều đưa ra lệnh đánh bắt cá vào mùa hè ở những khu vực Biển Đông mà nước này tự nhận là thuộc chủ quyền lãnh thổ của mình.

Lệnh cấm đánh bắt cá lần này được Trung Quốc thông báo sẽ áp dụng từ ngày 16/5 đến 1/8. Người đứng đầu Cục Quản lý Ngư nghiệp Trung Quốc cho biết, họ làm thế để bảo vệ hệ sinh thái và các nguồn lực ở Biển Đông. Lệnh cấm sẽ được áp dụng với cả ngư dân Trung Quốc lẫn ngư dân nước ngoài, trong đó có các nước đang có tranh chấp chủ quyền với Bắc Kinh ở khu vực Biển Đông giàu tài nguyên. 

Manila phản đối lệnh cấm của Trung Quốc, miêu tả đó là “sự vi phạm trắng trợn chủ quyền và quyền pháp lý của Philippine đối với vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Vùng đặc quyền này bao gồm khu vực lãnh hải xung quanh bãi cạn Scarborough".

Thứ Hai, 14 tháng 5, 2012

Đối thoại Bắc Kinh - Manila đổ vỡ


Manila và Bắc Kinh, như Bộ Ngoại giao Trung Quốc xác nhận ngày 12-5, đã nối lại liên hệ ngoại giao nhằm tìm giải pháp cho cuộc tranh chấp giữa hai nước về bãi cạn Scarborough.
Song ngòi nổ vẫn chưa được tháo gỡ. Vì sao?

Một chiếc Hải Nam Bảo Sa của Trung Quốc - Ảnh: hkwb.net
Một chiếc Hải Nam Bảo Sa của Trung Quốc - Ảnh: hkwb.net

Giới quan sát nhận xét việc đối thoại này đã lại như đá ném ao bèo, không thấy hai bên đề cập bất kỳ kết quả nào đạt được.

Pháp lý đối mặt với “cơ sở lịch sử”


Về phía Trung Quốc, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi vẫn lớn giọng lên lớp Philippines khi lặp lại những nội dung như trước. “Trung Quốc nhắc lại quan điểm của mình là yêu cầu Philippines tôn trọng chủ quyền của Trung Quốc ở bãi cạn Scarborough (Trung Quốc gọi là Hoàng Nham) và kiềm chế mọi hành động có thể làm tình hình thêm phức tạp và lan rộng. Chúng tôi sẽ theo dõi chặt chẽ tình hình và các hành động của phía Philippines” - trang web Bộ Ngoại giao Trung Quốc dẫn lời ông Hồng Lỗi với giọng đe nẹt quen thuộc.

Tương tự, giờ đây không còn mượn loa truyền thông để đổ tội, người phát ngôn Bộ Ngoại giao này đã ra trực tiếp cáo buộc: “Philippines đã kích động công chúng trong nước và ở nước ngoài phản đối Trung Quốc. Những hành động như thế đã làm xói mòn nghiêm trọng mối quan hệ Trung Quốc - Philippines, đã làm người dân Trung Quốc ở cả trong lẫn ngoài nước phản ứng mạnh”. Ông Hồng Lỗi còn yêu cầu Manila phải đảm bảo an toàn tuyệt đối cho công dân Trung Quốc ở Philippines.

Đáp lại, như Inquirer Daily cho biết, Ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario đã nhắc lại Manila không nhúng tay vào các cuộc biểu tình phản đối của người dân Philippines ở trong và ngoài nước hôm 11-5. Đề cập cuộc đối thoại, ông Del Rosario chỉ nêu lên những yêu sách của Bắc Kinh mà Manila không thể chấp nhận được. Bắc Kinh ngang nhiên yêu cầu Manila không được quấy rối các tàu dịch vụ công của Trung Quốc đang hoạt động gần bãi cạn Scarborough, các tàu cá Trung Quốc phải được hoạt động bình thường và các tàu của Philippines phải rời khỏi khu vực Scarborough mà Trung Quốc khăng khăng khẳng định thuộc chủ quyền của mình.

Trong khi Trung Quốc luôn khẳng định chủ quyền dựa trên những gì mà họ gọi là “cơ sở lịch sử” chỉ có Trung Quốc thừa nhận thì Philippines, như ngoại trưởng Del Rosario cho biết, đang hướng tới con đường pháp lý cho một giải pháp hòa bình bền vững đối với các vùng tranh chấp trên biển Đông.

“Cả thế giới đều biết rằng Trung Quốc có nhiều máy bay và tàu chiến hơn Philippines. Song cho đến cuối cùng, chúng tôi hi vọng chứng minh được rằng luật pháp quốc tế sẽ công bằng” - Ngoại trưởng Del Rosario nhấn mạnh.

Chính sách chiếm giữ các vùng biển


Báo Le Monde ngày 12-5 nhận định sự trở lại của Mỹ trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương được Bắc Kinh nhìn nhận như một tín hiệu đáng báo động. Từ đó Trung Quốc, vốn là nước đòi chủ quyền trên toàn biển Đông qua cái gọi là “đường lưỡi bò”, bắt đầu đặt để những con cờ của mình.

Đề cập đến cuộc đối đầu kỳ lạ đã kéo dài từ đầu tháng 4 đến nay giữa Philippines và Trung Quốc tại bãi cạn Scarborough, báo này đặt câu hỏi: lý của kẻ mạnh sẽ thắng ở biển Đông?

Theo chuyên gia nghiên cứu về Trung Quốc của Pháp Jean - Pierre Cabestan, Trung Quốc “hiện đang tìm cách chiếm giữ các vùng biển được cho là của mình” theo một chính sách mà ông mô tả là “việc đã rồi” bằng cách tránh can thiệp bằng tàu quân sự của hải quân nước này mà bằng tàu dân sự của năm cơ quan như cơ quan giám sát hàng hải (CMS) thuộc Bộ Đất đai và tài nguyên, văn phòng kiểm tra ngư nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp, hải quan, lực lượng tuần duyên (cảnh sát) và cơ quan an ninh hàng hải.

Mặt khác, trong ý đồ chiếm giữ các vùng biển, Trung Quốc đang triển khai mạnh mẽ hoạt động của các tàu cá trên biển. Những chương trình hỗ trợ ngư dân ở các tỉnh phía nam Trung Quốc đang thúc đẩy sự ra đời của những đội tàu đánh cá ngày càng hiện đại và vươn ra xa bờ ở các ngư trường nước sâu trên biển Đông. Bằng cách này, Trung Quốc sẽ đè bẹp các nước láng giềng.

Tỉnh Hải Nam đang triển khai đến biển Đông tàu Hải Nam Bảo Sa 001 với trọng tải 32.000 tấn. Nó như một nhà máy chế biến trên biển với 600 công nhân làm việc. Trang web Cục Hải dương quốc gia Trung Quốc cho biết cùng với tàu - nhà máy này còn có một tàu chở dầu 20.000 tấn, tàu vận chuyển 10.000 tấn và ba tàu từ 3.000-5.000 tấn, cùng 300-500 tàu đánh cá trên 100 tấn trong vùng biển đang tranh chấp trên biển Đông.

Hải Nam Bảo Sa 001 là tàu chế biến thủy sản lớn nhất của Trung Quốc và là một trong bốn tàu chế biến thủy sản lớn nhất trên thế giới. Tàu - nhà máy này được trang bị 14 dây chuyền sản xuất và với sự hỗ trợ của các tàu khác, nó có khả năng chế biến tại chỗ trên 2.100 tấn thủy sản mỗi ngày.