Trang

Thứ Hai, 6 tháng 8, 2012

Nhố nhăng ‘đường chín đoạn’


Cho đến năm 1945, cái gọi là “đường lưỡi bò” (hay đường chín đoạn) chưa hề xuất hiện. Vậy nó ra đời lúc nào?
Các bản đồ đời nhà Thanh ấn hành từ thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 đều khẳng định điểm cực nam của Trung Quốc chỉ dừng ở phủ Quỳnh Châu tại vĩ tuyến 18,13 độ vĩ bắc. Trong khi quần đảo Hoàng Sa nằm ở vĩ tuyến 17,15 độ vĩ bắc và quần đảo Trường Sa ở từ vĩ tuyến 12 đến 8 độ vĩ bắc. 

Biến thể quái thai 


Phải đến năm 1917, lần đầu tiên trên “Trung Hoa Dân quốc tân khu vực đồ” (1917) quy nạp quần đảo Hoàng Sa bằng cách vẽ thêm một khung vuông phụ trong bản đồ toàn quốc. Chưa dừng lại ở đó, năm 1947, Trung Hoa Dân quốc tiếp tục hành động xâm phạm chủ quyền Việt Nam bằng cách vẽ ra đường 11 đoạn ôm trọn Biển Đông. 
"Đường 11 doạn" năm 1947 và "đường 9 đoạn" năm 2009. Ảnh Tia Sáng
"Đường 11 doạn" năm 1947 và "đường 9 đoạn" năm 2009. Ảnh Tia Sáng

Những diễn biến dồn dập xảy ra trong hai năm 1946-1947 trực tiếp đẩy nhanh các kế hoạch xâm chiếm hai quần đảo quan trọng của Việt Nam trên Biển Đông. Sau khi Nhật đầu hàng quân đồng minh, tháng 2/1946, Quốc dân đảng đã ký với Pháp hiệp ước Trùng Khánh chấm dứt vai trò giải giáp quân Nhật tại Đông Dương. Cuối năm 1946, quân đội Trung Hoa dân quốc đưa bốn tàu chiến do tướng Lâm Tuân dẫn đầu xuôi Biển Đông để đến Hoàng Sa và Trường Sa, mà theo luận điệu hết sức vô lý là “giải giáp tàn quân Nhật”, mặc dù thời gian giải giáp đã hết từ lâu.
Tư liệu do tuần báo Phượng Hoàng (Hong Kong) trong cuộc gặp gỡ những người liên quan đến chuyến đi của Lâm Tuân đang sống ở Đài Loan lại cho biết người vẽ bản đồ “11 đoạn” không phải Lâm Tuân mà chính là giám đốc Sở Phương vực Phó Giác Kim. Ông này đã căn cứ trên những tư liệu sơ sài của Lâm Tuân, Trịnh Tư Duyệt và Tào Hi Mãnh để vẽ bản đồ trên.

Trong cuộc họp ngày 14/4/1947, Bộ Nội chính Trung Hoa dân quốc đã triệu tập hội nghị xác định phạm vi và chủ quyền các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hội nghị quyết định lấy vĩ tuyến 4 độ vĩ bắc, với chót điểm là bãi đá ngầm James ở gần Malaysia làm cực nam của bản đồ “đường 11 đoạn”. Đây chính là tiền thân của “đường lưỡi bò” ngày nay, cái mà Trung Quốc gọi là “đường chữ U” hay “đường 9 đoạn”. Đến đầu năm 1949, chính quyền Quốc dân đảng tháo chạy về Đài Loan, những tưởng đường 11 đoạn đã tiêu tan. Tuy nhiên, lòng tham và mưu đồ “liếm” trọn Biển Đông đã được “kế thừa”.

Theo Thời báo Hoàn Cầu, sau khi đuổi Quốc dân đảng ra khỏi đại lục, năm 1953 Chính phủ CHND Trung Hoa đã... biến “đường 11 đoạn” thành “đường 9 đoạn” nhưng không nêu rõ lý do. “Đường 9 đoạn” này cơ bản giống với “đường 11 đoạn” của Trung Hoa dân quốc. Chỉ có điều là nó tham lam hơn, “liếm” sát Việt Nam, Malaysia và Philippines hơn.

Bắc Kinh tạo ra một biến thể quái thai từ tấm bản đồ của Quốc dân đảng để vẽ ra “đường 9 đoạn” (còn gọi là đường lưỡi bò) rồi ngang nhiên tuyên bố chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam. Sự thay đổi phi lý trong các bản đồ trên là bằng chứng chỉ ra quá trình Trung Quốc “biến không thành có” để thâu tóm các đảo trên Biển Đông.

Chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa đã được Việt Nam xác định


Trên thực tế, ngay từ thế kỷ 17, các nhà nước Việt Nam đã thực sự quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hàng năm các nhà nước phong kiến Việt Nam vẫn cử những đoàn thuyền tuần tra và thu những nguồn lợi từ hai quần đảo này. Trong lúc các bản đồ và tài liệu địa chí Trung Hoa còn chưa đề cập đến hai quần đảo này thì các bản đồ và sách địa chí của Việt Nam đã mô tả tỉ mỉ cả về vị trí và những điều kiện thủy văn và nguồn lợi.

Khi nhận thấy âm mưu xâm chiếm của Trung Quốc và sự manh nha xuất hiện của người Nhật trên tuyến đường biển quan trọng “nối liền giữa Hong Kong và Sài Gòn”, đầu tháng 3/1925, toàn quyền Đông Dương Pasquier đã ra tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc lãnh thổ của Pháp (tức thuộc về An Nam đang là thuộc địa của Pháp lúc bấy giờ).

Sau đó, ngày 13/4/1930, Pháp đã cho tàu La Malicieuse ra Trường Sa để treo quốc kỳ Pháp. Mười ngày sau đó, Chính phủ Pháp đã tuyên bố thực thi chủ quyền trên quần đảo Trường Sa. Trước đó ngày 20/3/1930, toàn quyền Đông Dương đã yêu cầu Bộ thuộc địa Pháp “cần thừa nhận lợi ích của nước Pháp ẩn chứa trong việc thay mặt An Nam thực thi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa”. Sau đó năm 1938-1939, theo Nghị định số 3282 do toàn quyền Đông Dương Brievie ký, Pháp đã triển khai quân binh đến đảo Hoàng Sa xây dựng trạm hải đăng, trạm vô tuyến TFS và trạm khí tượng, song song đó cũng xây dựng thêm một trạm khí tượng khác trên đảo Phú Lâm.

Tháng 3/1933, Pháp đã điều bốn tàu Lamalicieuse, tàu chiến Alerte, hai tàu thủy văn Astrobale và De Lanessan đến Trường Sa ... và một lần nữa xác định chủ quyền.

Trước đó, trong bản ghi chú gửi cho Vụ châu Á đại dương, Bộ Ngoại giao Pháp đã viết: “Việc chiếm đóng quần đảo Trường Sa (Spratley) mà Pháp thực hiện trong hai năm 1931-1932 là nhân danh Hoàng đế An Nam”. Đến năm 1938, Pháp tiếp tục cho xây dựng bia chủ quyền, hải đăng, trạm khí tượng thủy văn và một trạm vô tuyến trên đảo Ba Bình (Itu-Aba). Như vậy, tính từ năm 1930-1938, chính quyền thực dân Pháp đã nhân danh An Nam (Việt Nam lúc bấy giờ) xác lập chủ quyền rõ ràng ở Hoàng Sa và Trường Sa.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét