Trang

Hiển thị các bài đăng có nhãn Biển Hoàng Hải. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Biển Hoàng Hải. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 18 tháng 4, 2012

Biển Đông: Cần sự nhìn nhận lịch sử, vô tư và tuân thủ luật pháp quốc tế


Tại Diễn đàn An ninh toàn cầu năm 2012, các đại biểu nhất trí cho rằng Biển Đông sẽ là thách thức chủ đạo đối với an ninh khu vực. Điều này phần nào đã được thể hiện qua những đối đầu căng thẳng gần đây giữa Trung Quốc với tàu thuyền các nước trong khu vực.

Tàu hải giám của Trung Quốc ở Biển Đông.
Tàu hải giám của Trung Quốc ở Biển Đông. Ảnh do Hải quân Philippines cung cấp ngày 10/4/2012.

Hội thảo diễn ra ngày 11/4 do Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) có trụ sở tại Hawaii (Mỹ) tổ chức. Hội thảo thu hút sự tham gia của đại biểu thuộc nhiều thành phần khác nhau, từ giới chức ngoại giao, chuyên gia luật pháp đến giới doanh nghiệp, trong đó có những công ty chuyên về vận tải biển.

Tại buổi hội thảo, Giám đốc phụ trách chương trình Đông Nam Á của CSIS, ông Earnest Bower, khẳng định Biển Đông là “vùng chiến lược nhất” trong khu vực, cả về vấn đề hàng hải và lãnh thổ.

“Biển Đông là khu vực có tranh chấp phức tạp. Vấn đề tự do hàng hải tại đây là một trong những vấn đề chính ảnh hưởng đến an ninh khu vực”.

Đây cũng là quan điểm của Đô đốc James Winnefeld Jr. khi ông này cho rằng Biển Đông đang trở thành thách thức chủ đạo ở châu Á – Thái Bình Dương.

Để giải quyết thách thức chủ đạo này, các đại biểu cho rằng “giải quyết vấn đề Biển Đông chủ yếu là giải quyết với Trung Quốc”.

Nhân tố Trung Quốc trong hồ sơ Biển Đông


Với tên gọi được thể hiện trên các bản đồ quốc tế là “South China Sea” (dịch nghĩa là biển Nam Trung Hoa), không ít người nghĩ rằng đây là vùng biển của Trung Quốc và chính Trung Quốc cũng tự cho là như vậy.

Tuy nhiên trên thực tế, đây chỉ là sự hiểu lầm đáng tiếc vì theo rất nhiều bằng chứng và vật chứng lịch sử được gìn giữ ở nước ta như các chiếu chỉ, sắc phong, thư tịch của  các Triều đại Lê, Nguyễn cách đây nhiều thế kỷ, Việt Nam có chủ quyền thể không tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông.

Không riêng với Việt Nam. Các nước khác trong khu vực cũng vướng vào những tranh cãi tương tự với Trung Quốc khi Bắc Kinh khăng khăng cho rằng họ có chủ quyền đối với 90% Biển Đông, bất chấp thực tế họ chỉ kiểm soát 13%  diện tích.

Lý giải về sự đòi hỏi vô lý này của Trung Quốc, trong phần trình bày của mình tại hội thảo CSIS, ông Bower đã đưa ra bản đối chiếu nhu cầu năng lượng của 6 nước và vùng lãnh thổ nằm trong khu vực này gồm Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Brunei và Đài Loan. Theo đó, nhu cầu năng lượng của Trung Quốc trong hai thập kỷ tới sẽ tăng lên đáng kể và cao hơn nhiều so với các nước khác. 

Trong khi đó, ngay từ cuối những năm 1960, các nhà khoa học đã phát hiện ở Biển Đông có trữ lượng rất lớn dầu và khí đốt tự nhiên. Không chỉ thế, Biển Đông còn có nguồn hải sản vô cùng phong phú, lại án ngữ ngay trên tuyến hàng hải quốc tế quan trọng hàng ngày vận chuyển tới 50% tổng lượng hàng hóa vận tải bằng đường biển của thế giới. Vì vậy, việc tranh chấp chủ quyền là điều khó tranh khỏi, nếu không muốn nói sẽ ngày càng phức tạp hơn.

Cuộc chơi bất đắc dĩ


Từ lâu, Trung Quốc đã chủ ý nhắm tới Biển Đông thông qua việc đẩy mạnh các hoạt động và tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ khu vực nằm trong “đường lưỡi bò” 9 khúc do Bắc Kinh tự vạch ra.

Nhưng đó chỉ là tuyên bố đơn phương của Trung Quốc.

Thông thường, trong các mối quan hệ quốc tế, quốc gia nào cũng sẽ tìm cách mang lại lợi ích kinh tế cho dân tộc mình. Lợi ích càng lớn, nỗ lực càng cao. Thậm chí, trong một vài trường hợp, một số nước còn sẵn sàng sử dụng cả vũ lực để đoạt lấy mục đích.

Những năm gần đây, kinh tế Trung Quốc đã vươn lên hàng thứ 2 thế giới, sau Mỹ. Với một lực lượng lao động đông đảo khoảng 800 triệu người và một nền khoa học – công nghệ tương đối phát triển, nhiều chuyên gia dự báo Trung Quốc rất có thể sẽ “vượt mặt anh cả” trong thời gian không xa.

Và để đáp ứng nhu cầu năng lượng cho tương lai phát triển ấy cũng như cho dân số 1,3 tỷ người hiện nay, Trung Quốc không thể không tận dụng khai thác mọi nguồn tài nguyên, cả trên đất liền và dưới biển. Tất nhiên, câu chuyện này sẽ chẳng có gì đáng bàn nếu như những “miền đất hứa” mà Trung Quốc nhắm đến đều thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Bắc Kinh.

Sau cuộc đối đầu mới đây giữa 2 tàu hải giám của Trung Quốc với 2 tàu chiến của Philippines tại một bãi đá cạn mà cả hai bên đều tuyên bố có chủ quyền (Philippines gọi là Scarborough và Trung Quốc gọi là Hoàng Nham), báo giới Bắc Kinh đã cảnh báo Manila “chớ có đùa với lửa” và rằng những động thái gần đây của Philippines đã “vượt quá sự tha thứ” của Trung Quốc.

Không chỉ “giương cung” với Philippines, Trung Quốc còn đòi “các doanh nghiệp nước ngoài tôn trọng và ủng hộ nỗ lực giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán song phương giữa các quốc gia liên quan, tránh can thiệp vào tranh chấp Biển Đông dưới mọi hình thức”.

Những tuyên bố này của Trung Quốc càng là minh chứng cho nhận định của các đại biểu tham dự Diễn đàn An ninh Toàn cầu 2012 rằng “giải quyết vấn đề Biển Đông chủ yếu là giải quyết với Trung Quốc”.

Cần sự nhìn nhận lịch sử, vô tư và tuân thủ luật pháp quốc tế


Nguyên nhân sâu xa của các cuộc tranh chấp chủ quyền biển đảo trên Biển Đông xuất phát từ tham vọng của một số nước muốn kiểm soát vị trí địa lý quan trọng, những túi dầu khí khổng lồ, nguồn lợi hải sản phong phú và các nguồn lợi vô tận khác của Biển Đông vốn không thuộc về mình.

Tham vọng đó sẽ bị coi là ngang ngược khi nó bất chấp những minh chứng lịch sử, luật pháp quốc tế và nguồn lợi tương ứng của các nước liên quan.

Trong một bài viết gần đây, báo chí Trung Quốc đã công khai thừa nhận các cuộc tranh chấp ở Biển Đông và Hoàng Hải sẽ ngày càng diễn ra mạnh mẽ.

“Bắc Kinh sẽ áp dụng các hành động bảo vệ chủ quyền một cách kiên quyết, đồng thời sử dụng sức mạnh ngày càng lớn của đất nước để hỗ trợ cho những hành động này”, báo Hoàn Cầu của Trung Quốc số ra ngày 12/4 nêu rõ.

Với những tuyên bố này của Bắc Kinh, việc tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông sẽ còn diễn biến phức tạp và kéo dài, đặc biệt khi Trung Quốc đang tuyên bố có chủ quyền tại nhiều vùng vốn đang thuộc chủ quyền của nước khác.

Muốn giải quyết bài toán đầy mâu thuẫn này, đòi hỏi các bên phải nhìn nhận đúng lịch sử, vô tư, công bằng, không vụ lợi và nghiêm chỉnh tuân thủ luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước về luật biển của Liên hợp quốc năm 1982 (UNCLOS). 

Tất nhiên, ngay cả khi đã thực hiện đúng như vậy, nguy cơ xảy ra va chạm nhỏ ở Biển Đông vẫn là điều khó tránh khỏi, do có sự mâu thuẫn lợi ích giữa các nước. Nhưng liệu va chạm nhỏ có bùng lên thành xung đột lớn? Câu trả lời là không vì hiện tại, Mỹ đang ráo riết thực hiện chiến lược chuyển trọng tâm trở lại khu vực châu Á – Thái Bình Dương, trong khi Trung Quốc vẫn “nuôi giấc mộng bá chủ thế giới”.  

“Trung Quốc có những ưu tiên khác như vấn đề Đài Loan, Tây Tạng và Mỹ. Hiện nay, vấn đề Biển Đông không đủ lớn để đánh nhau. Trừ phi ngày mai họ tìm thấy có quá nhiều dầu khí để quyết định đi tới chiến tranh. Mà ngay cả khi các nước tìm thấy tài nguyên thì chiến tranh chưa chắc là giải pháp nhanh chóng hay tốt nhất cho Trung Quốc”, Tiến sĩ Ang Chung Guan - nhà nghiên cứu nổi tiếng về Biển Đông của Singapore – nói.

Thứ Tư, 11 tháng 4, 2012

Mỹ lập kế hoạch đập tan mưu đồ của Trung Quốc trên biển Đông


Trong bối cảnh căng thẳng trên biển Đông ngày một leo thang và những động thái mới gần đây của Trung Quốc chứng tỏ họ đang mưu đồ thống trị các vùng "biển gần" - Hoảng Hải, biển Đông và Hoa Đông - Mỹ cùng các đồng minh, các đối tác an ninh trong khu vực cũng "rục rịch" chuẩn bị kế hoạch ứng phó.

Những ý đồ của Trung Quốc trên biển Đông


Ngay sau khi chính quyền Obama công bố chính sách “Hướng đông” hồi cuối năm ngoái với mục đích chính là bảo vệ an ninh hàng hải tại eo biển Malacca và biển Đông, căng thẳng tại khu vực này bắt đầu leo thang, chủ yếu bởi hàng loạt động thái khiêu khích, gây hấn của Trung Quốc.

Bắc Kinh có ý định thống trị các vùng “biển gần" – biển Hoảng Hải, biển Đông và biển Hoa Đông – biến chúng thành vùng đệm bảo vệ an ninh đại lục và cho phép Trung Quốc khai thác nguồn thủy sản trị giá và nguồn tài nguyên dồi dào dưới đáy biển bao gồm khí đốt, dầu mỏ và khoáng sản. 

Ngoài ra, Trung Quốc có ý định hạn chế các hoạt động quân sự nước ngoài, đặc biệt là Mỹ, tại khu vực Biển Đông. Do đó, Trung Quốc tập trung tuyên bố chủ quyền mạnh mẽ trên ba biển này bất chấp xâm phạm lợi ích các quốc gia láng giềng.

Trung Quốc mạnh mẽ khẳng định chủ quyền và quyền tài phán tại các vùng “biển gần".
Trung Quốc mạnh mẽ khẳng định chủ quyền và quyền tài phán tại các vùng “biển gần". Ảnh minh họa: New Prophecy. 

Trung Quốc tuyên bố gần 3,5 triệu km2 biển Đông thuộc quyền kiểm soát của họ, tuyên bố chủ quyền đối với các hòn đảo và các vùng lãnh hải nằm ngoài khơi xa, cách biệt với đại lục, nằm ngoài khu vực đặc khu kinh tế của họ.
Đồng thời, Bắc Kinh mạnh mẽ khẳng định quyền tài phán – một hình thức kiểm soát khác đối vùng lãnh hải rộng lớn trên biển Đông.

“Các vùng biển tranh chấp đang dần vuột khỏi tầm kiểm soát của chúng tôi vì không có ý định sử dụng sức mạnh quân sự để đảm bảo ưu sách chúng tôi. Vẽ một bản đồ chính xác hơn, Trung Quốc có thể tăng cường các tuyên bố chủ quyền, quyền tài phán trên biển Đông và các hoạt động khác theo sau chẳng hạn, khai thác các nguồn tài nguyên gần đảo Nansha”, ông Zhang Yunling, Giám đốc Viện nghiên cứu quốc tế trực thuộc Học viện Khoa học Xã hội tuyên bố trên Global Times.

Song song với tuyên bố trên, các công ty quốc doanh của Trung Quốc tích cực thăm dò tìm kiếm dầu mỏ và khí đốt trong khu vực.

Tuy nhiên, Bắc Kinh lại công khai thách thức các công ty dầu mỏ nước ngoài đã và đang có ý định đầu tư vào ngành công nghiệp năng lượng ngoài khơi, bất chấp tính hợp pháp của các thỏa thuận hợp tác giữa họ. 

Chưa dừng lại ở đó, Trung Quốc không ngại bắt và giam giữ ngư dân láng giềng trái phép nếu họ lỡ lạc bước đến gần các khu vực lãnh hải tranh chấp trên biển Đông. 

Đầu tháng giêng năm nay, Ngoại trưởng Philippines Alberto del Rosario cho biết chính phủ nước này đã triệu tập và bày tỏ "quan ngại sâu sắc" với Đại sứ Trung Quốc tại Manila sau khi ba tàu của Bắc Kinh, trong đó có một tàu hải quân, bị phát hiện ở gần bãi cát ngầm Sabina trên Biển Đông vào các ngày 11-12/12/2011. Vụ xâm phạm này là động thái mới nhất đổ thêm dầu vào lửa cho căng thẳng giữa Manila – Bắc Kinh liên quan đến các tranh chấp lãnh hải trên biển Đông 

Chỉ tình riêng tháng ba vừa qua, đã xảy ra hàng loạt các sự cố liên quan đế tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc với các quốc gia trong khu vực. Chẳng  vụ tranh cãi nảy lửa giữa Bắc Kinh và Seoul liên quan đến bãi đá ngầm Ieodo.

Bắc Kinh cũng đụng độ với Manlila liên quan đến kế hoạch xây cầu cảng nhằm "phát triển du lịch" ở đảo Thị Tứ thuộc quần đảo Trường Sa...

Giữa bối cảnh trên, nhiều chuyên gia phân tích cho rằng Trung Quốc rất có thể "đánh úp" biển Đông.

Trung Quốc rất có thể "đánh úp" biển Đông?
Trung Quốc rất có thể "đánh úp" biển Đông? Ảnh minh họa: People Daily.

Steve Tsang, Giám đốc Viện chính sách Trung Quốc thuộc ĐH Nottingham, tin rằng Trung Quốc có thể khởi động một cuộc chiến bất thình lình và quy mô nhỏ nhằm vào Philippines.

“Khởi động cuộc chiến chống lại Việt Nam chỉ làm an ninh ở Đông Nam Á và Đông Á bất ổn hơn. Trung Quốc không dễ chiến thắng Việt Nam. Dù vậy, họ rất có thể phát động một cuộc chiến như thế”, ông Steve Tsang nhấn mạnh. 

Trong khi đó, James Holmes, Phó Giáo sư nghiên cứu Chiến lược của Học viện Chiến tranh Hải quân Mỹ nhận định Bắc Kinh có thể sẽ thành công nếu tấn công Philippines.

“Bắc Kinh sẽ khởi động bất cứ cuộc chiến tranh quy mô nhỏ nào khi có thể. Sức mạnh quân sự vượt trội của họ dựa trên các loạt vũ khí như tên lửa đạn đạo chống hạm sẽ mang lại ưu thế cho Trung Quốc trong suốt cuộc chiến”, ông Holmes giải thích.

Đáng chú ý là, hàng loạt các bài bình luận trên các phương tiện truyền thông chính thống của Trung Quốc, đáng chú ý nhất là tờ Global Times – cơ quan ngôn luận của đảng Cộng sản Trung Quốc - khái niệm về “các cuộc chiến quy mô nhỏ” gia tăng kể tăng kể từ năm 2011. 

Đầu tháng ba vừa qua, Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo tuyên bố quân đội Trung Quốc cần chuẩn bị tốt hơn cho các "cuộc chiến tranh cục bộ".

Như vậy, rất có thể trong tương lai, biển Đông sẽ lại dậy sóng bởi một cuộc tấn công bất thình lình và hạn chế của Trung Quốc.

Mỹ và đồng minh sẵn sàng ứng chiến


Trước các động thái mới của Trung Quốc, Mỹ cùng các đồng minh và các đối tác an ninh của Mỹ tại Châu Á - Thái Bình Dương rục rịch lên kế hoạch chống lại việc sử dụng và đe dọa sử dụng vũ lực của Trung Quốc nhằm giành lấy các mục tiêu mở rộng của họ trong khu vực, đặc biệt là ở biển Đông, trung tâm hàng hải của Đông Nam Á.

Mỹ bắt đầu tổ chức lại lực lượng ở Thái Bình Dương tập trung vào mục tiêu duy trì sự ổn định trong khu vực Đông Nam Á đồng thời bảo vệ các tàu thuyền và các tuyến đường vận tải năng lượng  xuyên qua Ấn Độ Dương tới các nền kinh tế Đông Á – các cầu thủ quan trọng quyết định sự tăng trưởng toàn cầu.
Thực hiện cam kết đã ký hồi cuối năm ngoái với Australia, khoảng 200 thủy quân lục chiến Mỹ vừa đặt chân đến Darwin, miền bắc nước này hôm 3/4. Đây sẽ là tiền thân cho một lực lượng hùng hậu hơn với 2.500 thủy quân lục chiến được triển khai dần từ nay cho đến năm 2015.

Quân đội Mỹ đặt chân đến Darwin, miền Bắc Australia đêm 3/4.
Quân đội Mỹ đặt chân đến Darwin, miền Bắc Australia đêm 3/4. Ảnh minh họa: AFP.

Việc thủy quân lục chiến Mỹ theo kế hoạch được huy động luân phiên tại các căn cứ quân sự ở miền Bắc Australia, là sự khẳng định mạnh mẽ cho tuyên bố của Tổng thống Obama hồi cuối năm ngoài rằng Mỹ kiên quyết đóng vai trò rộng lớn hơn và lâu dài hơn trong việc định hình khu vực (châu Á-Thái Bình Dương) trong tương lai, bất chấp ngân sách quốc phòng eo hẹp do thực hiện chính sách thắt lưng buộc bụng.

Tại Hội nghị thượng đỉnh an ninh Hạt nhân tại Hàn Quốc cuối tháng ba vừa qua, Tổng thống Mỹ Obama tái khẳng định việc cắt giảm chi tiêu quốc phòng của Mỹ không ảnh hưởng đến kế hoạch mở rộng sự hiện diện của các lực lượng Mỹ tại châu Á - Thái Bình Dương. “Các lực lượng của Mỹ sẽ luôn ở trong tình trạng sẵn sàng ứng phó nhanh nhất, hiệu quả đầy đủ nhất với các sự cố và các mối đe dọa trong khu vực", Tổng thống Obama khẳng định.

Ngoài việc cho phép sự hiện diện hải quân Mỹ trên lãnh thổ của mình, Australia cũng cung cấp cho Mỹ quyền truy cập thoải mái vào các căn cứ không quân cũng ở miền Bắc nước này và căn cứ hải quân chính của họ tại Ấn Độ Dương gần Perth.

Ngoài ra, nếu lực lượng phòng không và hải quân của Australia được quyền ra vào tự do các vùng lãnh hải quốc tế trong khu vực, đó sẽ là một đảm bảo cho các hoạt động thương mại của nước này, bao gồm cả hoạt động khẩu năng lượng , xuyên qua biển Đông, trở thành nguồn cung cấp dồi dào cho các đối tác an ninh ở châu Á.

Trong khi đó, Singapore tỏ ra sẵn sàng cung cấp các căn cứ cơ sở cho các tàu chiến tuần duyên Littoral Combat Ship - một loại chiến hạm mới, nhỏ, chuyên dùng cho các chiến dịch sát bờ biển.

Sau cuộc hội đàm giữa hai Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ và Singapore tại Washington hôm 04/04, Lầu Năm Góc thông báo hai bên đều nhấn mạnh “một sự hiện diện hùng hậu của Mỹ trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương sẽ củng cố sự ổn định và an ninh trong khu vực”.

Việt Nam – một trong những quốc gia liên quan đến các tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc trên biển Đông cũng đang nỗ lực xây dựng lực lượng nhằm bảo vệ các lợi ích chính đáng của họ. Đồng thời, Malaysia cũng đang tiến hành các hành động tương tự.

Bộ đôi Nhật Bản và Mỹ cũng dự kiến hoàn thành thỏa thuận vào cuối tháng này để chuyển 4,700 binh sĩ Mỹ đồn trú tại các căn cứ ở đảo Okinawa đến đảo Guam, căn cứ quân sự trọng yếu nhất của Mỹ ở Tây Thái Bình Dương.
Tờ Yomiuri Shimbun của Nhật cho hay kế hoạch phân bổ lực lượng mới sẽ tách các đơn vị Thủy quân Lục Chiến, Lục quân, không quân và các đơn vị hậu cần vào đóng quân tại một hệ thống các căn cứ hình cánh cung dọc theo sườn bờ biển phía Đông của Trung Quốc, trong đó, Thủy quân Lục chiến là lực lượng mũi nhọn của Mỹ, được triển khai tại khu vực châu Á -Thái Bình Dương. 

Đồng thời, Yomiuri bình luận rằng kế hoạch phân bổ quân trên khiến các cuộc tấn công quân sự từ bên ngoài vào các căn cứ của Mỹ tại Thái Bình Dương trở nên khó khăn hơn. Đồng thời nó giúp Mỹ ứng phó hiệu quả hơn với các cuộc tấn công như trên. Không những vậy, nó cũng giúp chống lại sự bành trướng mạnh quân sự của Trung Quốc và giúp các nỗ lực cứu trợ nhân đạo trong các thảm họa trong tương lai trở nên thuận tiện hơn và nhanh chóng hơn.