Trang

Hiển thị các bài đăng có nhãn Biển Đông. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Biển Đông. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 15 tháng 8, 2012

Người Việt cần thức tỉnh


Khi biển Đông luôn vọng về những “âm thanh gây hấn” của Trung Quốc thì lòng yêu nước nồng nàn của người Việt ngày càng được thể hiện rõ ràng. Mỗi khi báo chí đưa tin về vấn đề biển Đông luôn thu hút số lượng người đọc khổng lồ trong và ngoài nước.

Điều đó đặt ra vấn đề hết sức nghiêm túc và cần thiết: báo chí và truyền thông cần làm gì cho người dân hiểu đúng bản chất vấn đề Biển Đông?

Công khai thông tin tranh chấp trên biển Đông đã đem lại những hiệu ứng tích cực.
Công khai thông tin tranh chấp trên biển Đông đã đem lại những hiệu ứng tích cực.

Bài học nào từ truyền thông Mỹ?


Không phải ai cũng từng đến nước Mỹ, không phải ai cũng nói và hiểu được tiếng Anh, nhưng hầu hết mọi người đều biết rằng có một nước Mỹ tồn tại theo cách dễ hình dung nhất. Một đứa trẻ 5 tuổi biết đến Mỹ qua bộ phim hoạt hình Tom và Jerry, chú chuột Mickey… Những học sinh, sinh viên biết đến Mỹ nhờ các kênh truyền hình như CNN, HBO… Còn những người lớn tuổi hơn, họ bàn về tình hình thế giới và chẳng thể bỏ qua một cường quốc như Mỹ.

Thực tế, Trung Quốc cũng đang áp dụng sức mạnh mềm này, khi liên tục tuyên truyền “bôi đen” rằng “Việt Nam chiếm Hoàng Sa, Trường Sa của họ…” Và đa số người dân Trung Quốc đều tin vào luận điệu đó. Chính phủ Trung Quốc được mệnh danh là bậc thầy trong chiêu trò “biến thủ phạm thành nạn nhân”. Một số nhà báo, học giả Trung Quốc viết trên tờ Hoàn Cầu đã vẽ ra một hình ảnh đất nước Việt Nam như một tội đồ, để lừa dối chính nhân dân, quân đội họ và lừa dối cả thế giới”.

Một minh chứng rõ ràng nhất là cuộc chiến 1979 với người Việt Nam, truyền thông Trung Quốc có hàng ngàn bài báo xuyên tạc nhồi nhét vào đầu người Trung Quốc rằng đó là “chiến công oanh liệt của quân giải phóng Trung Quốc phản công quân Việt Nam xâm lược”. Đến giờ phút này, số người hiểu được thực chất cuộc chiến chỉ có 1%.

Dường như Trung Quốc đang cố dùng bộ máy truyền thông do Nhà nước kiểm soát để đưa những thông tin sai lệch về Việt Nam nhằm kích động dân chúng. Liệu Việt Nam có thể học được gì từ bài học truyền thông của Mỹ trong việc truyền bá và nâng cao hình ảnh đất nước, nhất là vấn đề chủ quyền biển Đông hiện nay?

Thức tỉnh


Nếu như trước đây người dân ít chú ý đến những thông tin về Biển Đông, sách báo cũng ít khi tuyên truyền rầm rộ. Thì giờ đây khi nói về vấn đề này đa số người dân Việt Nam đều bày tỏ tình cảm yêu nước của mình. Tuy nhiên, ai cũng hiểu rằng, họ chỉ mới có tình yêu nước nồng nàn mà thiếu sự am hiểu về vấn đề này. Họ cũng bày tỏ khát vọng được tìm hiểu sâu sắc, đầy đủ bản chất về vấn đề Biển Đông.

Liên quan đến vấn đề nhận thức của nhân dân về biển Đông hiện nay, Tiến sĩ Trần Công Trục- Nguyên Trưởng ban Biên giới của Chính phủ khẳng định: “Nhận thức về Biển Đông của người dân Việt mới chỉ được đánh thức còn tỉnh hay chưa, theo tôi là chưa tỉnh”.

Nhà nghiên cứu Trung Quốc Dương Danh Dy, Nguyên Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại Quảng Châu cho rằng: “Chúng ta chưa tuyên truyền bài bản về vấn đề biển Đông nên người dân chưa có điều kiện để hiểu rõ, hiểu sâu vấn đề này. Lòng yêu nước rất đáng quý, đáng trân trọng nhưng cần phải được trang bị hiểu biết về vấn đề Biển Đông một cách đầy đủ, cần hiểu bản chất vấn đề này thì mới có thể đấu tranh hiệu quả cho chủ quyền Tổ quốc”.

“Các tạp chí chuyên môn hiện nay thiếu vắng những bài viết của người Việt. Các du học sinh Việt Nam rất lúng túng khi trao đổi về chủ quyền biển đảo ở biển Đông”. (Tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã)

Đưa thông tin lan tỏa khắp thế giới


Thời gian qua Trung Quốc đã lợi dụng truyền thông như một cỗ máy nói dối để bóp méo sự thật. Trong khi Việt Nam laị chưa khai thác triệt để sức mạnh mềm của truyền thông. Theo đó, các cơ quan ngôn luận cần tập trung truyền tải những thông tin đầy đủ, chính xác về chứng cứ lịch sử, cơ sở pháp lý, các Công ước và luật pháp quốc tế. Từ đó người dân Việt Nam nhận thức rõ ràng việc bảo vệ chủ quyền Biển Đông là sự nghiệp của toàn dân tộc. Khi nắm được lịch sử Biển Đông và hiểu luật pháp quốc tế, người dân sẽ vững tin vào điều đó. Thuận được lòng dân, chúng ta sẽ làm được tất cả. Sự hiểu biết, đoàn kết của nhân dân sẽ tạo nên sức mạnh mà không một thế lực nào có thể phá vỡ được”.

Hơn lúc nào hết, chúng ta nên đẩy mạnh việc tuyên truyền về lòng yêu nước, lịch sử biển Đông trong trường học. Ngoài ra cần cổ vũ các học giả viết, xuất bản, công bố sách, báo về những chứng cứ lịch sử của biển Đông. Không chỉ tuyên truyền bằng tiếng Việt mà bằng ngôn ngữ của nhiều quốc gia khác như tiếng Anh, tiếng Trung Quốc… và đưa lên mạng internet để lan tỏa khắp thế giới. Cho người dân Việt Nam, thế giới và đặc biệt là nhân dân Trung Quốc hiểu rõ hơn về bản chất sự thật.

Bạch Dương - Website Nguyễn Tấn Dũng

Thứ Năm, 9 tháng 8, 2012

Tạo dựng sức mạnh từ tình đoàn kết ASEAN


Nhân kỷ niệm 45 năm thành lập ASEAN, ngày 7-8 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có bài phát biểu về cột mốc có ý nghĩa đặc biệt này, đánh dấu một chặng đường xây dựng và trưởng thành của Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đọc diễn văn chào mừng kỷ niệm 45 năm Ngày thành lập ASEAN.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đọc diễn văn chào mừng kỷ niệm 45 năm Ngày thành lập ASEAN.

Thủ tướng nhấn mạnh: “Bốn thập kỷ rưỡi không ngừng mở rộng hợp tác và đẩy mạnh liên kết, ASEAN đã tạo dựng được vị thế quan trọng ở khu vực và trên thế giới với những đóng góp tích cực được ghi nhận cho hòa bình, ổn định và hợp tác, phát triển ở Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương. Ngày nay, trước ngưỡng cửa hình thành cộng đồng ASEAN vào năm 2015, ASEAN đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ về chất thông qua các nỗ lực tăng cường hợp tác và liên kết nội khối trên cả ba trụ cột chính trị - an ninh, kinh tế và văn hóa - xã hội, song song với thu hẹp khoảng cách phát triển; đồng thời mở rộng và nâng tầm quan hệ nhiều mặt, cùng có lợi với các đối tác bên ngoài, trong đó có các cường quốc và trung tâm lớn trên thế giới. ASEAN đã trở thành hạt nhân dẫn dắt các tiến trình đối thoại và hợp tác quan trọng như ASEAN+1, ASEAN+3, Cấp cao Đông Á (EAS), Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF)..., là động lực mạnh mẽ thúc đẩy hợp tác và liên kết khu vực ở Đông Á”.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho rằng yếu tố quyết định hàng đầu giúp tạo nên hình ảnh và vị thế mà ASEAN có được chính là khả năng duy trì “thống nhất trong đa dạng”, tạo dựng sức mạnh chung từ tính thống nhất, tinh thần đoàn kết và “Phương cách ASEAN”. Theo đó, ASEAN luôn đề cao đồng thuận, tôn trọng và hỗ trợ lẫn nhau, cùng quan tâm và kết hợp hài hòa giữa lợi ích quốc gia với lợi ích cộng đồng. Sức mạnh của tình đoàn kết ASEAN đã được chứng minh khi hiệp hội vững vàng vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997-1998, phối hợp và chia sẻ trong khắc phục hậu quả những trận thiên tai, dịch bệnh lớn tác động đến khu vực...

Theo Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, để thực hiện thành công các mục tiêu đề ra, trước hết là đưa cộng đồng ASEAN trở thành hiện thực vào năm 2015, ASEAN cần vận dụng linh hoạt và nhuần nhuyễn sự thống nhất trong quyết tâm chung và hành động mạnh mẽ nhằm hoàn thành đúng hạn và hiệu quả các kế hoạch hợp tác trên cả ba trụ cột chính trị - an ninh, kinh tế và văn hóa - xã hội trong lộ trình xây dựng cộng đồng ASEAN. Giữ vững các nguyên tắc cơ bản, đoàn kết, thống nhất song song với chủ động, sáng tạo trong giải quyết các vấn đề đặt ra trên chặng đường phát triển mới, nhất là các thách thức đối với hòa bình, ổn định, an ninh và phát triển ở khu vực. Các tiến trình đối thoại về xây dựng, chia sẻ các chuẩn mực ứng xử và ngăn ngừa xung đột cần được tiếp tục thúc đẩy; các cam kết đã được quy định trong các văn kiện như Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á, Hiệp ước khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân, Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC)... cần được thực hiện nghiêm túc; các khác biệt, tranh chấp cần được giải quyết hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế và tinh thần đoàn kết ASEAN.

Thủ tướng khẳng định ASEAN đã và sẽ tiếp tục là một trụ cột quan trọng trong đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa và đa phương hóa, chủ động hội nhập khu vực và quốc tế của VN.

Theo TTXVN

Thứ Hai, 6 tháng 8, 2012

Nhố nhăng ‘đường chín đoạn’


Cho đến năm 1945, cái gọi là “đường lưỡi bò” (hay đường chín đoạn) chưa hề xuất hiện. Vậy nó ra đời lúc nào?
Các bản đồ đời nhà Thanh ấn hành từ thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 đều khẳng định điểm cực nam của Trung Quốc chỉ dừng ở phủ Quỳnh Châu tại vĩ tuyến 18,13 độ vĩ bắc. Trong khi quần đảo Hoàng Sa nằm ở vĩ tuyến 17,15 độ vĩ bắc và quần đảo Trường Sa ở từ vĩ tuyến 12 đến 8 độ vĩ bắc. 

Biến thể quái thai 


Phải đến năm 1917, lần đầu tiên trên “Trung Hoa Dân quốc tân khu vực đồ” (1917) quy nạp quần đảo Hoàng Sa bằng cách vẽ thêm một khung vuông phụ trong bản đồ toàn quốc. Chưa dừng lại ở đó, năm 1947, Trung Hoa Dân quốc tiếp tục hành động xâm phạm chủ quyền Việt Nam bằng cách vẽ ra đường 11 đoạn ôm trọn Biển Đông. 
"Đường 11 doạn" năm 1947 và "đường 9 đoạn" năm 2009. Ảnh Tia Sáng
"Đường 11 doạn" năm 1947 và "đường 9 đoạn" năm 2009. Ảnh Tia Sáng

Những diễn biến dồn dập xảy ra trong hai năm 1946-1947 trực tiếp đẩy nhanh các kế hoạch xâm chiếm hai quần đảo quan trọng của Việt Nam trên Biển Đông. Sau khi Nhật đầu hàng quân đồng minh, tháng 2/1946, Quốc dân đảng đã ký với Pháp hiệp ước Trùng Khánh chấm dứt vai trò giải giáp quân Nhật tại Đông Dương. Cuối năm 1946, quân đội Trung Hoa dân quốc đưa bốn tàu chiến do tướng Lâm Tuân dẫn đầu xuôi Biển Đông để đến Hoàng Sa và Trường Sa, mà theo luận điệu hết sức vô lý là “giải giáp tàn quân Nhật”, mặc dù thời gian giải giáp đã hết từ lâu.
Tư liệu do tuần báo Phượng Hoàng (Hong Kong) trong cuộc gặp gỡ những người liên quan đến chuyến đi của Lâm Tuân đang sống ở Đài Loan lại cho biết người vẽ bản đồ “11 đoạn” không phải Lâm Tuân mà chính là giám đốc Sở Phương vực Phó Giác Kim. Ông này đã căn cứ trên những tư liệu sơ sài của Lâm Tuân, Trịnh Tư Duyệt và Tào Hi Mãnh để vẽ bản đồ trên.

Trong cuộc họp ngày 14/4/1947, Bộ Nội chính Trung Hoa dân quốc đã triệu tập hội nghị xác định phạm vi và chủ quyền các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hội nghị quyết định lấy vĩ tuyến 4 độ vĩ bắc, với chót điểm là bãi đá ngầm James ở gần Malaysia làm cực nam của bản đồ “đường 11 đoạn”. Đây chính là tiền thân của “đường lưỡi bò” ngày nay, cái mà Trung Quốc gọi là “đường chữ U” hay “đường 9 đoạn”. Đến đầu năm 1949, chính quyền Quốc dân đảng tháo chạy về Đài Loan, những tưởng đường 11 đoạn đã tiêu tan. Tuy nhiên, lòng tham và mưu đồ “liếm” trọn Biển Đông đã được “kế thừa”.

Theo Thời báo Hoàn Cầu, sau khi đuổi Quốc dân đảng ra khỏi đại lục, năm 1953 Chính phủ CHND Trung Hoa đã... biến “đường 11 đoạn” thành “đường 9 đoạn” nhưng không nêu rõ lý do. “Đường 9 đoạn” này cơ bản giống với “đường 11 đoạn” của Trung Hoa dân quốc. Chỉ có điều là nó tham lam hơn, “liếm” sát Việt Nam, Malaysia và Philippines hơn.

Bắc Kinh tạo ra một biến thể quái thai từ tấm bản đồ của Quốc dân đảng để vẽ ra “đường 9 đoạn” (còn gọi là đường lưỡi bò) rồi ngang nhiên tuyên bố chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam. Sự thay đổi phi lý trong các bản đồ trên là bằng chứng chỉ ra quá trình Trung Quốc “biến không thành có” để thâu tóm các đảo trên Biển Đông.

Chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa đã được Việt Nam xác định


Trên thực tế, ngay từ thế kỷ 17, các nhà nước Việt Nam đã thực sự quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hàng năm các nhà nước phong kiến Việt Nam vẫn cử những đoàn thuyền tuần tra và thu những nguồn lợi từ hai quần đảo này. Trong lúc các bản đồ và tài liệu địa chí Trung Hoa còn chưa đề cập đến hai quần đảo này thì các bản đồ và sách địa chí của Việt Nam đã mô tả tỉ mỉ cả về vị trí và những điều kiện thủy văn và nguồn lợi.

Khi nhận thấy âm mưu xâm chiếm của Trung Quốc và sự manh nha xuất hiện của người Nhật trên tuyến đường biển quan trọng “nối liền giữa Hong Kong và Sài Gòn”, đầu tháng 3/1925, toàn quyền Đông Dương Pasquier đã ra tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc lãnh thổ của Pháp (tức thuộc về An Nam đang là thuộc địa của Pháp lúc bấy giờ).

Sau đó, ngày 13/4/1930, Pháp đã cho tàu La Malicieuse ra Trường Sa để treo quốc kỳ Pháp. Mười ngày sau đó, Chính phủ Pháp đã tuyên bố thực thi chủ quyền trên quần đảo Trường Sa. Trước đó ngày 20/3/1930, toàn quyền Đông Dương đã yêu cầu Bộ thuộc địa Pháp “cần thừa nhận lợi ích của nước Pháp ẩn chứa trong việc thay mặt An Nam thực thi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa”. Sau đó năm 1938-1939, theo Nghị định số 3282 do toàn quyền Đông Dương Brievie ký, Pháp đã triển khai quân binh đến đảo Hoàng Sa xây dựng trạm hải đăng, trạm vô tuyến TFS và trạm khí tượng, song song đó cũng xây dựng thêm một trạm khí tượng khác trên đảo Phú Lâm.

Tháng 3/1933, Pháp đã điều bốn tàu Lamalicieuse, tàu chiến Alerte, hai tàu thủy văn Astrobale và De Lanessan đến Trường Sa ... và một lần nữa xác định chủ quyền.

Trước đó, trong bản ghi chú gửi cho Vụ châu Á đại dương, Bộ Ngoại giao Pháp đã viết: “Việc chiếm đóng quần đảo Trường Sa (Spratley) mà Pháp thực hiện trong hai năm 1931-1932 là nhân danh Hoàng đế An Nam”. Đến năm 1938, Pháp tiếp tục cho xây dựng bia chủ quyền, hải đăng, trạm khí tượng thủy văn và một trạm vô tuyến trên đảo Ba Bình (Itu-Aba). Như vậy, tính từ năm 1930-1938, chính quyền thực dân Pháp đã nhân danh An Nam (Việt Nam lúc bấy giờ) xác lập chủ quyền rõ ràng ở Hoàng Sa và Trường Sa.

Thứ Bảy, 4 tháng 8, 2012

Phải thực thi Luật Biển một cách vững chắc


Luật Biển Việt Nam đã được ban hành, có hiệu lực từ 1-1-2013. Đây là sự khẳng định mạnh mẽ về chủ quyền các vùng biển quốc gia. Tính dân tộc đã được thể hiện ở tầm cao mới qua việc ra được Luật Biển trong bối cảnh tranh chấp biển Đông ngày càng phức tạp. Vấn đề là cần cụ thể hóa “Luật Mẹ” bằng các “Luật con”, thực thi Luật Biển một cách vững chắc, chủ động “mở cửa” hội nhập quốc tể trên biển, góp phần xây dựng Biển Đông thành khu vực biển hoà bình, tăng cường lợi ích quốc gia trên biển.

Việt Nam phải chú trọng nâng cao năng lực để bao quát vùng biển của mình
Việt Nam phải chú trọng nâng cao năng lực để bao quát vùng biển của mình

Ban hành Luật Biển Việt Nam là bước đi quan trọng

Khi mới thành lập Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam (năm 2008), hệ thống chính sách quản lý tổng hợp biển gần như con số không. Rất khó cho các nhà quản lý nếu không có một “Luật Mẹ” để làm cơ sở ban hành các đạo luật nhỏ hơn hoặc các văn bản chính sách dưới luật. Rất mừng là Luật Biển Việt Nam – đạo “Luật Mẹ” đã được ban hành. Luật Biển Việt Nam có một giá trị pháp lý to lớn, như một “UNCLOS con”- tức Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, ở cấp quốc gia.
Luật Biển Việt Nam gồm 7 chương, 55 điều. Điều 1, chương 1 của Luật Biển Việt Nam nêu rõ phạm vi điều chỉnh của luật là đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam; hoạt động trong vùng biển Việt Nam; phát triển kinh tế biển, quản lý và bảo vệ biển, đảo.
Việc khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong Luật là sự tiếp nối lập trường nhất quán của Việt Nam trong vấn đề này, đã được nêu rõ trong Nghị quyết năm 1994 của Quốc hội Việt Nam phê chuẩn Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982 và Luật Biên giới quốc gia năm 2003.
Chương 2 gồm 14 điều quy định về việc xác định đường cơ sở, chế độ pháp lý của các vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam (nội thủy, lãnh hải) và các vùng biển thuộc quyền chủ quyền của ta (vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa), đảo, quần đảo và chế độ pháp lý của đảo.
Chương 3 gồm có 20 điều quy định về nội hàm của việc đi qua không gây hại, nghĩa vụ khi thực hiện quyền này, quy định tuyến hàng hải và phân luồng giao thông. Trong chương này, đề cập đến 13 hành vi bị coi là gây phương hại đến hòa bình, quốc phòng, an ninh khi tàu thuyền nước ngoài đi qua lãnh hải Việt Nam (Khoản 3, Điều 23)…
Chương 4 có 5 điều quy định các nguyên tắc phát triển biển, các ngành kinh tế biển ưu tiên phát triển, vấn đề quy hoạch phát triển kinh tế biển, khuyến khích, ưu đãi đầu tư phát triển kinh tế biển trên các đảo và hoạt động trên biển.
Chương 5 có 3 điều quy định về lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển; nhiệm vụ và phạm vi trách nhiệm tuần tra, kiểm soát trên biển.
Chương 6 có 4 điều quy định về dẫn giải và địa điểm xử lý vi phạm, biện pháp bảo đảm tố tụng, xử lý vi phạm, biện pháp đối với đối tượng là người nước ngoài… nhằm đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng, đúng pháp luật giữa các cơ quan có trách nhiệm xử lý vi phạm Luật Biển Việt Nam.
Chương 7 ghi rõ Luật Biển Việt Nam có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2013. Chính phủ sẽ ban hành những quy định hướng dẫn thi hành các điều khoản được giao ở trong Luật.
Điểm thành công của Luật Biển Việt Nam là đã chi tiết hóa được các quy định của Công ước LHQ về Luật Biển 1982 thành các điều khoản để có thể áp dụng trên các vùng biển của Việt Nam. Quan trọng nhất là Luật này xác định được các vùng biển và quy chế pháp lý cho từng vùng.
Luật Biển là tiền đề, hành lang pháp lý quan trọng nhưng để đưa Luật vào cuộc sống Việt Nam cần lực lượng chấp pháp – trong khi ở thời điểm hiện tại, sức mạnh của lực lượng này của chúng ta chưa thể bao quát hết 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế được quy định trong Luật. Vì thế, Việt Nam phải chú trọng nâng cao năng lực để bao quát vùng biển của mình. Đồng thời phải phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, kết hợp chỉ đạo điều hành thể hiện tính kiên quyết thực thi pháp luật, Luật mới đi vào cuộc sống.

Cụ thể hóa “Luật Mẹ” bằng các “Luật con”

Mừng vì đã có “Luật Mẹ,” song Việt Nam tiếp tục phải ra những đạo luật nhỏ hơn để thực hiện triệt để quyền làm chủ cũng như tiến ra biển một cách vững chắc, bởi đơn giản là chủ quyền biển đảo chỉ được khẳng định tốt khi chúng ta khai thác có hiệu quả và kiểm soát được các vùng biển của mình ngoài hiện trường.
Xây dựng khung pháp lý để quản lý biển và hải đảo là câu chuyện dài, không thể hoàn thiện một sớm một chiều nhưng phải làm càng sớm càng tốt. Hiện đã có không ít văn bản chính sách và pháp luật về quản lý nhà nước theo ngành (thủy sản, hàng hải, dầu khí, du lịch, các cơ quan chấp pháp trên biển khác…) và chắc chắn để thống nhất quản lý nhà nước về biển, phải ban hành hệ thống chính sách quản lý biển tổng hợp và nguyên tắc quản lý biển theo không gian, cùng với việc điều chỉnh ít nhiều các văn bản quản lý biển theo ngành nói trên cho phù hợp, bám sát tình hình thực tế, có như thế mới bảo đảm được lợi ích quốc gia, hài hòa lợi ích ngành và người lao động. Trước mắt cần đẩy nhanh việc xây dựng Luật Tài nguyên và Môi trường biển để cụ thể hóa vấn đề quản lý khai thác, sử dụng biển, đảo và bảo vệ môi trường biển đã ghi trong Luật Biển Việt Nam. Các luật tiếp theo nên xây dựng là: Luật Quản lý tổng hợp vùng bờ biển, Luật về Khu bảo tồn biển, Luật Sử dụng hải đảo (vì trong biển bạc mỗi đảo là một “thỏi vàng đen” và là một “cột mốc chủ quyền” quốc gia trên biển), Luật Bảo vệ môi trường biển,…
Nước ta có các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia: nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Chúng thuộc về các mảng không gian biển khơi, vịnh, vùng biển ven bờ (vùng ven bờ) và nhỏ hơn là các mảng không gian của các vũng biển ven bờ (bay),…với các đặc trưng và tiềm năng phát triển khác nhau. Từ cách tiếp cận quản lý tổng hợp để tiến tới thống nhất quản lý nhà nước về biển và hải đảo, phải coi biển và các mảng không gian trong nó là hệ thống tài nguyên chia sẻ, sử dụng cho nhiều ngành (đa ngành). Cho nên quy hoạch không gian biển được xem là một nội dung trong quy hoạch khai thác sử dụng biển, đảo (không gian biển). Trên cơ sở quy hoạch sử dụng không gian như vậy, sẽ tiến hành xác định “chế độ pháp lý” cho các mảng không gian được phân chia cho các ngành, người sử dụng để bảo đảm mức độ tuân thủ quy hoạch cao nhất, để giảm thiểu mâu thuẫn lợi ích trong sử dụng đa ngành và tối ưu hóa lợi ích kinh tế, trong khi vẫn bảo toàn được chức năng sinh thái và bảo vệ môi trường theo hướng phát triển bền vững ở vùng quy hoạch.
Thêm nữa, giá trị của không gian biển không chỉ là con tôm, con cá và nguồn tài nguyên không tái tạo như dầu khí… mà biển còn là không gian sinh tồn của dân tộc ta.

Luật Biển là điểm tựa vững chắc để tiến ra biển

Vùng biển khơi rộng lớn ở phía ngoài là không gian phát triển các hoạt động hàng hải và khai thác dầu khí ở thềm lục địa, đồng thời sẽ là nơi diễn ra các hoạt động hợp tác và hội nhập kinh tế biển sôi động hơn khi nước ta là quốc gia hội nhập quốc tế, đáp ứng khá tốt yêu cầu với tư cách là thành viên của Liên Hợp Quốc, thành viên của UNCLOS 1982 thành viên WTO… Ta cần tiếp tục điều chỉnh cơ chế, chính sách để sẵn sàng hội nhập quốc tế hiệu quả trong lĩnh vực biển vì dấu ấn hội nhập và hợp tác quốc tế đối với biển vẫn còn mờ.
Trong bối cảnh nước ta đã chính thức bước vào “sân chơi quốc tế”, cũng phải chuẩn bị đội hình và công nghệ để sớm tham gia hưởng lợi từ không gian đại dương, “lấy đại dương nuôi đất liền”. Chính sách biển của nước ta một mặt, phải có tác động điều chỉnh hành vi phát triển của các ngành kinh tế biển, tạo ra một trật tự pháp lý ổn định trên vùng biển quốc gia; mặt khác, phải hỗ trợ khả năng hội nhập quốc tế, trước hết phải phù hợp với tinh thần của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982.
Đảm bảo độc lập, chủ quyền là yêu cầu tiên quyết nhưng như thế không có nghĩa là “đóng cửa biển”! Khi đã có Luật Biển, nếu có được chính sách tạo ra được điểm hài hòa về lợi ích, chúng ta nhất định sẽ có những đối tác tốt, đối tác mạnh, giúp chúng ta làm giàu. Chúng ta cần những cơ chế chính sách tốt, khôn ngoan, khơi dậy được những tiềm năng sẵn có chứ không phải chỉ “dựa vào tiền”. Ta có cả một vùng biển rộng với vị trí chiến lược, nguồn nhân lực dồi dào…, phải thực sự hội nhập, giống như khi bạn đứng ngoài nhìn dòng giao thông đông đúc kia rất ngại nhưng khi hòa vào dòng lưu thông đó, ta cũng sẽ thông minh ra, tìm ra cách đi riêng. Mà lợi ích trên Biển Đông thì không chỉ của các nước bên bờ Biển Đông!
Nguyễn Chu Hồi

Thứ Tư, 1 tháng 8, 2012

'Hải giám Tam Sa' lấn lướt xâm phạm ở biển Đông


Nhật báo Pháp chế của Trung Quốc đưa tin lực lượng hải giám "Tam Sa" sẽ lần lượt lên từng đảo ở Biển Đông để thực hiện cái gọi là hoạt động chấp pháp - một hành động xâm phạm trắng trợn chủ quyền của Việt Nam.

Trung Quốc ngang nhiên xây dựng trụ sở trên đảo Phú Lâm của Việt Nam Thông tin này được tờ Văn hối tại Hong Kong đăng tải lại trên số ra ngày 31/7.

'Hải giám Tam Sa' lấn lướt xâm phạm ở biển Đông
'Hải giám Tam Sa' lấn lướt xâm phạm ở biển Đông

Tờ nhật báo trên ngang nhiên tuyên bố rằng chi đội “thành phố Tam Sa” của lực lượng hải giám Trung Quốc sẽ lần lượt tiến hành kiểm tra tình hình khai thác, phát triển các đảo không người ở trên Biển Đông.

"Trọng điểm hoạt động là giám sát quản lý đối với những hành vi khai thác đá và cát, nuôi trồng và du lịch trái quy định; nếu phát hiện hành vi vi phạm pháp luật, lực lượng này sẽ tiến hành điều tra xét xử", tờ báo viết.
Theo trang Yomiuri của Nhật Bản hôm 27/7, với động thái lập thành phố Tam Sa, Trung Quốc muốn tăng cường kiểm soát hiệu quả đối với các quần đảo này. Không chỉ dừng lại ở đó, Trung Quốc còn tổ chức đại hội Đại biểu Nhân dân để bầu ra thị trưởng thành phố, tiến tới thiết lập bộ máy hành chính tại đây.

"Có lẽ, Trung Quốc muốn đặt thành phố Tam Sa làm bàn đạp cho mưu đồ khai thác tài nguyên, nguồn lợi thủy sản và phát triển du lịch trên Biển Đông," Yomiuri nhận định.

Sau khi phía Trung Quốc có quyết định thành lập cái gọi là "thành phố Tam Sa" ngày 23/6, lãnh đạo tỉnh Khánh Hòa và lãnh đạo thành phố Đà Nẵng đã lên tiếng phản đối quyết định sai trái và phi pháp này, làm tổn hại quan hệ hai nước, tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước.

Theo Vietnam+

Thứ Hai, 30 tháng 7, 2012

Truyền thông Trung Quốc nói gì về bản đồ cổ?


Ngày 26/7 kênh tin video của tờ báo điện tử SINA xuất bản tại Trung Quốc phát đi một đoạn phóng sự về việc Tiến sĩ Mai Hồng hiến tặng Bảo tàng Quốc gia tấm bản đồ cổ Trung Quốc từ thời nhà Thanh chứng minh rất rõ 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không thuộc chủ quyền Trung Quốc. Động thái này sẽ cung cấp cho độc giả Trung Quốc những thông tin đa chiều, và họ hoàn toàn có thể kiểm chứng được những tấm bản đồ này và thấy được sự bịa đặt trắng trợn của giới cầm quyền với âm mưu độc chiếm biển Đông và 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam.

Vì sao Trung Quốc 'ngang nhiên' ở Biển Đông?


Những diễn biến gần đây ở khu vực tranh chấp Biển Đông cho thấy Trung Quốc đang theo đuổi một “chuỗi phản ứng quyết liệt” trong cách tiếp cận ở vùng biển này.

Tác giả bài viết, Stephanie Kleine-Ahlbrandt, là giám đốc dự án Đông Bắc Á của Nhóm nghiên cứu khủng hoảng quốc tế. 
Bắc Kinh đã phản ứng quyết liệt trong một phép thử diễn ra ở bãi cạn Scarborough tranh chấp với Philippines từ đầu tháng 4. Nhân việc Philippines dùng tàu chiến trong vụ việc liên quan tới tàu cá, Trung Quốc đã tận dụng cơ hội để khẳng định chủ quyền của họ với bãi cạn bằng cách triển khai các tàu thực thi pháp luật phi quân sự và cho phép chúng neo đậu lâu dài trong khu vực. 

Bắc Kinh không ngại ngần dùng áp lực kinh tế với Manila khi thắt chặt quy định nhập khẩu hoa quả nhiệt đới, gây tổn thất khoảng 34 triệu USD cho Philippines.

Bắc Kinh cũng công bố hàng loạt quy định hàng hải mới bao trùm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Khi những quy định ấy còn chưa ráo mực, Trung Quốc tuyên bố thành lập cái gọi là “thành phố Tam Sa” nhằm thiết lập phạm vi quản lý với một khu vực rộng lớn kể cả những nơi tranh chấp với Việt Nam và Philippines. Đầu tuần này, Bắc Kinh còn cho phép bộ Tư lệnh quân sự Quảng Châu thành lập một đơn vị đồn trú ở “Tam Sa”. 

Cũng là một phần của hàng loạt hành động gây hấn, cuối tháng 6, Bắc Kinh quyết định cho phép một trong những tập đoàn dầu khí nhà nước, CNOOC, mời các công ty năng lượng nước ngoài bỏ thầu những dự án cùng thăm dò ở nhiều phần trên Biển Đông thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. 

Khi Trung Quốc ngày càng lấn lướt trong cuộc chơi, người ta hy vọng các nước ASEAN sẽ thống nhất quan điểm về vấn đề tranh chấp. Nhưng sự thật thì ngược lại. Tại cuộc gặp các ngoại trưởng khu vực diễn ra đầu tháng ở Phnom Penh, Trung Quốc đã tận dụng cơ hội làm yếu đi sự đoàn kết của tổ chức này. Họ dùng ảnh hưởng khiến Campuchia, chủ tịch luân phiên ASEAN, ngăn chặn cuộc thảo luận thực sự có ý nghĩa về tranh chấp ở Biển Đông, thậm chí khiến lần đầu tiên trong lịch sử 45 năm, ASEAN không ra được tuyên bố chung. 

Tàu khu trục số hiệu 560 của Trung Quốc đã mắc cạn trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế của Philippines.
Tàu khu trục số hiệu 560 của Trung Quốc đã mắc cạn trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Ảnh: Getty Images

Ngay khi cuộc gặp ở Phnom Penh kết thúc đáng thất vọng, thì hàng loạt báo chí đã đưa tin về việc một tàu khu trục hải quân Trung Quốc mắc cạn gần bãi Trăng Khuyết - chỉ cách đảo chính Palawan của Philippines 110km. Bộ Quốc phòng Trung Quốc tuyên bố, con tàu chỉ thực hiện nhiệm vụ tuần tra thông thường mặc dù nơi mà nó mắc cạn hoàn toàn nằm trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Tàu khu trục này có khả năng là một phần các chuyến tuần tra theo như mô tả của người phát ngôn quân đội Trung Quốc là “sẵn sàng chiến đấu” ở Biển Đông.

Điều tàu quân sự tới vùng nước tranh chấp cũng có thể là một dấu hiệu cho thấy, Trung Quốc đã thay đổi từ việc sử dụng tàu thực thi pháp luật để phản ứng với những sự cố gần đây kiểu như ở bãi cạn Scarborough. 

Cách tiếp cận trắng trợn hơn của Trung Quốc có thể được giải thích một phần bằng thực tế là, họ không hài lòng với những gì thu được từ sự thay đổi chiến thuật năm 2011 - đặt trọng tâm hơn vào ngoại giao biển tiếp theo những hành động quả quyết. 

Chính trị trong nước cũng góp phần vào thái độ của Trung Quốc ở Biển Đông. Trước đó, khi công chúng hoang mang vì bê bối Bạc Hy Lai, thì sự cố ở bãi cạn Scarborough cung cấp cơ hội tiện lợi nhằm tạo ra sự phân tâm, đánh lạc hướng dư luận. Còn giờ đây, Trung Quốc một lần nữa không ngại ngần “khoe cơ bắp” trên biển, một phần cũng bởi thời gian chuyển giao lãnh đạo đã tới rất gần.

Tuy nhiên, giới lãnh đạo Trung Quốc nên cẩn thận vì những gì họ mong muốn. Một cách tiếp cận cứng rắn có thể dễ phản tác dụng. Nó khiến các nước trong khu vực lo ngại và tìm mọi cách “rào giậu” phòng thủ, tự bảo vệ trước một hàng xóm lớn hung hăng. Hơn thế nữa, các tranh chấp lãnh thổ thường đánh thẳng vào cảm giác chủ nghĩa dân tộc - công chúng nổi giận có thể gây áp lực với chính phủ trong những quyết định ngoại giao. Chính phủ Trung Quốc có thể tự mình mắc kẹt ở vị trí giữa sức ép khu vực, quốc tế và gánh nặng chủ nghĩa dân tộc trong nước. 

Thứ Sáu, 27 tháng 7, 2012

Đại sứ Campuchia tại Thái Lan đổ trách nhiệm cho Philippines, Việt Nam


Campuchia đã thất bại trong việc “giả mạo” một sự đồng thuận để dẫn đến kết cục ASEAN không ra được thông cáo chung. Đó là một tổn hại nghiêm trọng đối với úy tín của ASEAN.
Bài báo “Campuchia đã đẩy ASEAN vào một tương lai nguy hiểm” của cây viết kỳ cựu Vint Chavala đăng tải trên tờ The Nation xuất bản ngày 15/7 và được báo Giáo dục Việt Nam đưa lại hôm qua 25/7 đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của dư luận. Đại sứ Campuchia tại Thái Lan đã viết bài đăng tải trên tờ The Nation xuất bản tại Thái Lan ngày hôm qua, phủ nhận hoàn toàn những gì tác giả Vint Chavala đã viết và cũng là tiếng nói của cả khu vực. Nực cười hơn, vị Đại sứ này còn lớn tiếng chụp mũ cho Philippines và Việt Nam mới chính là “thủ phạm” khiến ASEAN không ra được thông cáo chung. Để rộng đường dư luận và tôn trọng thông tin đa chiều, cung cấp cho độc giả nhiều góc nhìn khác nhau để tham chiếu, so sánh vụ việc nhằm tìm ra bản chất, báo Giáo dục Việt Nam xin đăng tải lại bài báo này của Đại sứ Campuchia tại Thái Lan.
Tôi muốn phản hồi lại bài báo của ông Vint Chavala. Tôi đã giải thích khá rõ ràng lý do tại sao Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN không thể ra được thông cáo chung trong lá thư của tôi viết ngày 17/7 để phản bác lại quan điểm đánh giá sai lầm (của ông Vint Chavala) trong bài viết “Campuchia đã đẩy ASEAN vào tương lai nguy hiểm” xuất bản trên The Nation ngày 15/7.
Ảnh chụp màn hình bài phản biện của ông Đại sứ Campuchia tại Thái Lan đăng trên tờ The Nation xuất bản tại Thái Lan hôm qua 25/7 về bài viết của nhà báo Vint Chavala
Ảnh chụp màn hình bài phản biện của ông Đại sứ Campuchia tại Thái Lan đăng trên tờ The Nation xuất bản tại Thái Lan hôm qua 25/7 về bài viết của nhà báo Vint Chavala
Ông Vint Chavala nên tham khảo thư trả lời của tôi đề ngày 17/7.
Nếu một người công bằng họ sẽ đồng ý rằng tiêu đề bài báo ngày 17/7 lẽ ra cần viết là “Hai nước thành viên ASEAN đã hạ bệ vai trò của Chủ tịch ASEAN” vì những lý do sau đây:
Đầu tiên, Ngoại trưởng các nước ASEAN ngày 20/7 tuyên bố các nguyên tắc (giải quyết tranh chấp) trên biển Đông đã không tham khảo trực tiếp bất cứ tranh chấp song phương nào. Trong khoảng thời gian bị hạn chế của một số cuộc họp, Campuchia đã đề nghị chính xác vấn đề này, mặc dù không có 6 điểm khoanh vùng của các Ngoại trưởng.
Theo đó đề nghị của Campuchia đã được chấp nhận bởi tất cả các Ngoại trưởng trừ Ngoại trưởng 2 nước Philippines và Việt Nam là hai quốc gia thành viên đang có tranh chấp lãnh thổ trên biển Đông (với Trung Quốc).
Thứ hai, hai quốc gia này đã chuẩn bị tài liệu tham khảo trực tiếp liên quan đến tranh chấp trên biển Đông và yêu cầu vấn đề biển Đông phải được đưa vào nội dung thông cáo chung. Họ không nhượng bộ khi cho rằng họ sẽ không cho phép một thông cáo chung nếu như yêu cầu của họ không được đáp ứng.
Ngoại trưởng Campuchia ông Hor Namhong trong Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN vừa qua tại Phnom Penh
Ngoại trưởng Campuchia ông Hor Namhong trong Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN vừa qua tại Phnom Penh
Điều đó cho thấy khá rõ ràng, ai mới là người phải chịu trách nhiệm cho việc “gây bất ổn” đối với ASEAN theo thuật ngữ mà ông Vint Chavala đã dùng.
Đó là sự thật rằng lần đầu tiên trong lịch sử 45 năm của khối, Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN không thể đưa ra một thông cáo chung. Tuy nhiên, người ta cũng phải thừa nhận rằng đây cũng là lần đầu tiên 2 quốc gia thành viên (Philippines và Việt Nam) đã “tấn công” các cuộc họp (Ngoại trưởng ASEAN) và lấy tuyên bố chung làm “con tin” cho các vấn đề tranh chấp song phương.
Cho đến năm nay thì ASEAN đã vẫn luôn đặt sang một bên bất cứ vấn đề gì nếu nó thiếu một sự đồng thuận. Vì vậy chưa từng có 2 nước thành viên nào áp đặt ASEAN như một tối hậu thư để ngăn chặn ASEAN ra tuyên bố chung.
Là Chủ tịch luân phiên khối ASEAN, Campuchia luôn đề cao nhiệm vụ của mình để ngăn ngừa tranh chấp trong khu vực. Trên thực tế, ý định của Campuchia là để mở cửa cho các cuộc đàm phán trong tương lai của các nước liên quan.
Nhiều bên tin rằng không có con đường tốt hơn để xoa dịu căng thẳng và tìm thấy một giải pháp hòa bình và thân thiện để xử lý các tranh chấp. Như thế, Campuchia không muốn đổ thêm dầu vào lửa.
Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì và người đồng cấp Campuchia ông Hor Namhong trao đổi riêng bên lề cuộc họp Ngoại trưởng ASEAN tại Phnom Penh
Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì và người đồng cấp Campuchia ông Hor Namhong trao đổi riêng bên lề cuộc họp Ngoại trưởng ASEAN tại Phnom Penh
Tôi hy vọng làm rõ trên một lần nữa là đủ, để hiểu được nguyên nhân gốc rễ của những rắc rối tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN vừa qua và chấm dứt các cuộc tranh luận hiện tại mà tôi không muốn tiếp tục thêm nữa.
Một vài năm trước đây, một cuộc chiến tranh tương tự với những lời lẽ vu khống điên cuồng chống lại Campuchia công bố trên báo chí làm cho tình hình đã trở nên căng thẳng, dẫn đến xung đột vũ trang tại biên giới với Thái Lan.
You Ay
Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Campuchia tại vương quốc Thái Lan.
Không khó để thấy được sự bóp méo mọi sự thật và chụp mũ cho Philippines và Việt Nam về cái tội “phá hoại sự đoàn kết” ASEAN mà chính Campuchia với vai trò Chủ tịch luân phiên ASEAN đã không làm tròn chức trách.
Trước đó, Ngoại trưởng các nước thành viên đã đồng thuận các nội dung mang tính nguyên tắc của bản Quy chế ứng xử của các bên trên biển Đông để ASEAN đứng ra đàm phán với Trung Quốc, vì chí ít có 4 thành viên của khối có tranh chấp trên biển Đông với Bắc Kinh nhưng Campuchia với vai trò nước chủ nhà cứ gạt phắt đi và khăng khăng theo quan điểm của Trung Quốc, đàm phán tay đôi.
Ngoại trưởng Singapore K. Shanmugam: Campuchia đã thất bại trong việc giả mạo một sự đồng thuận để dẫn đến kết cục ASEAN không ra được tuyên bố chung
Ngoại trưởng Singapore K. Shanmugam: Campuchia đã thất bại trong việc giả mạo một sự đồng thuận để dẫn đến kết cục ASEAN không ra được tuyên bố chung
Thứ hai, những hoạt động leo thang gây hấn của Trung Quốc trên biển Đông trước và trong các diễn đàn, hội nghị quan trọng của khu vực ASEAN xảy ra thường xuyên hơn, các bên đều cơ bản đồng thuận với việc đưa nội dung này vào tuyên bố chung theo đề xuất của Philippines và Việt Nam nhằm giảm căng thẳng và nguy cơ bùng phát xung đột trên biển Đông.
Đại sứ Campuchia tại Thái Lan quy chụp một cách lộ liễu 2 nước Philippines và Việt Nam là "kẻ phá hoại" bất chấp mọi thực tế cũng như phản ứng của các nước thành viên. Để khách quan, xin mượn lời của các quan chức bên thứ 3 đứng ra nhận định.
Ngoại trưởng Singapore K. Shanmugam cho hay, Campuchia đã thất bại trong việc “giả mạo” một sự đồng thuận để dẫn đến kết cục ASEAN không ra được thông cáo chung. “Đó là một tổn hại nghiêm trọng đối với úy tín của ASEAN và càng làm gia tăng sự mơ hồ trong nội dung thảo luận của Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN sẽ được tổ chức tại Campuchia tháng 11 năm nay”.
Ngoại trưởng Indonesia Marty Natalegawa cho biết ông cũng đã nói chuyện qua điện thoại với Ngoại trưởng Philippines, Albert del Rosario. “Nếu các quan điểm mất đi tính đa dạng thì ASEAN có thể bị suy yếu một cách tai hại vì chia rẽ”, ông Marty Natalegawa nhận định, “việc ASEAN phải có giải pháp đối với những bất đồng là vô cùng quan trọng, nếu chúng ta không làm gì, chúng ta biết thiệt hại sẽ lớn hơn”.
Ngoại trưởng Indonesia
Ngoại trưởng Indonesia
Bài viết của nhà báo Vint Chavala đã vạch trần ý đồ ngả theo Trung Quốc của Chủ tịch luân phiên khối ASEAN đương nhiệm nhằm mưu cầu lợi ích cho riêng quốc gia mình bất chấp sự tổn hại ghê gớm đối với sự đoàn kết nội khối và phân tích rất rõ trục quan hệ lợi ích Bắc Kinh - Phnom Penh nhằm lợi dụng lẫn nhau.
Thiết nghĩ không cần phải nói lại vì những phân tích của nhà báo Vint Chavala, nhận định và phản ứng của Ngoại trưởng Singapore, Ngoại trưởng Indonesia đã là quá đủ. Và cũng giống như các vị trên đã cảnh báo, nếu một Chủ tịch luân phiên ASEAN đương nhiệm không nhận ra sai lầm của mình, sớm muộn họ cũng phải trả giá đắt bằng danh dự, uy tín của mình trong khu vực và trên các diễn đàn quốc tế.

Thứ Tư, 25 tháng 7, 2012

Căng thẳng ở Biển Đông ‘có thể thành xung đột’


Một tổ chức nghiên cứu quốc tế uy tín cảnh báo rằng tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông có thể leo thang thành xung đột bởi lực lượng vũ trang ngày một lớn mạnh của các nước trong khu vực.

Đường lưỡi bò trên bản đồ do Trung Quốc tự vẽ. Ảnh: VOV.
Đường lưỡi bò trên bản đồ do Trung Quốc tự vẽ. Ảnh: VOV.

Theo Nhóm Nghiên cứu Khủng hoảng Quốc tế (ICG) có trụ sở tại Brussel, Bỉ, triển vọng giải quyết các tranh chấp "dường như bị thu hẹp" sau khi 10 nước ASEAN mới đây họp mà chưa ra được một bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông.

"Không có được sự đồng thuận về cơ chế giải quyết, căng thẳng trên Biển Đông dễ dàng diễn biến thành xung đột vũ trang. Khi các nước ASEAN còn chưa thống nhất được chính sách về Biển Đông thì luật pháp và quy định sẽ không được tuân thủ", AFP dẫn lời ông Paul Quinn-Judge, giám đốc chương trình châu Á của ICG, cho biết.

Trong khi đó, các nước tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông đặc biệt là Trung Quốc không ngừng tăng cường sức mạnh Hải quân và lực lượng bảo vệ bờ biển trong bối cảnh tranh chấp, một phần do áp lực chính trị trong nước và chủ nghĩa dân tộc của người dân các nước này. Vì thế, theo ICG, sự việc có thể diễn biến căng thẳng hơn, không loại trừ nguy cơ đối đầu trên biển.

Philippines đầu tuần này tuyên bố sẽ mua sắm thêm máy bay và tàu chiến, trong khi Đài Loan (đảo thuộc Trung Quốc và cũng tự tuyên bố chủ quyền một số nơi ở Trường Sa) có kế hoạch mở rộng cơ sở quân sự, đưa súng cối và pháo cao xạ đến khu vực tranh chấp.

Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với gần như toàn bộ Biển Đông và thực hiện nhiều hoạt động rầm rộ tại đây, bất chấp sự phản đối của các nước láng giềng như Việt Nam và Philippines. Biển Đông là nơi Trung Quốc cùng các nước thành viên ASEAN là Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei có tuyên bố chủ quyền chồng lấn.

Tàu chiến lớn nhất của Philippines mới mua từ Mỹ, đã tham gia vụ chạm mặt với Trung Quốc ở bãi cạn Scarborough/Hoàng Nham hồi đầu tháng 4. Ảnh: AFP
Tàu chiến lớn nhất của Philippines mới mua từ Mỹ, đã tham gia vụ chạm mặt với Trung Quốc ở bãi cạn Scarborough/Hoàng Nham hồi đầu tháng 4. Ảnh: AFP

Báo cáo của ICG cho rằng Trung Quốc đang "tích cực khoét sâu" sự chia rẽ bên trong ASEAN bằng cách đối xử ưu tiên với một số thành viên ủng hộ quan điểm của Trung Quốc trong tranh chấp hiện nay.

"Sự thiếu đoàn kết giữa các nước đối thủ của Trung Quốc, cộng với những điểm yếu trong cơ chế đa phương của khu vực đang gây khó khăn cho việc tìm kiếm một giải pháp", báo cáo nhấn mạnh.

"Mọi xu thế hiện nay đang đi sai hướng, và triển vọng tìm ra giải pháp đang ngày càng biến mất".

Các nước láng giềng, như Việt Nam và Philippines, chỉ trích Trung Quốc làm cho tình hình Biển Đông thêm phức tạp. Một tiếng nói từ Mỹ của thượng nghị sĩ John McCain cũng cho rằng các hành động gần đây của Trung Quốc ở Biển Đông là khiêu khích một cách không cần thiết và không phù hợp với một cường quốc.

Campuchia đẩy ASEAN vào một tương lai nguy hiểm


Thống nhất và đoàn kết nội khối ASEAN là điều quan trọng nhất cho sự sống còn của cộng đồng khối cũng như việc bảo lưu các khả năng thương lượng của khối. Nếu mỗi thành viên ASEAN sau đó chỉ chăm chăm lợi ích riêng của nước mình như Campuchia, ASEAN sẽ không có tương lai.
Tờ The Nation xuất bản tại Thái Lan ngày 15/7 đăng bài phân tích của nhà báo kỳ cựu Vint Chavala với tiêu đề "Campuchia đã đẩy ASEAN vào một tương lai nguy hiểm". Bài viết phân tích khá sâu sắc nguyên nhân sự đổ vỡ của Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN tại Phnom Penh vừa qua với trách nhiệm của một Chủ tịch luân phiên ASEAN. Trong bài báo, tác giả cũng phân tích rất rõ những xảo thuật mà phía Trung Quốc đã sử dụng nhằm cố tình gây chia rẽ nội bộ ASEAN để phục vụ một âm mưu xuyên suốt, độc chiếm biển Đông thành ao nhà. Nhận thấy đây là một tiếng nói khách quan, phân tích sâu sắc, hợp tình hợp lý về vấn đề biển Đông cũng như một số nguyên nhân căng thẳng và cả những dự báo, báo điện tử Giáo dục Việt Nam xin trân trọng đăng tải bài phân tích này để cung cấp thêm cho độc giả một góc nhìn đa chiều về sự kiện đang thu hút sự quan tâm đông đảo.
Chỉ vì đầu óc cục bộ, Campuchia đã phá vỡ mối liên kết nội khối ASEAN. Trong 45 năm lịch sử hoạt động của mình, chưa bao giờ một Hội nghị Ngoại trưởng của khối không ra được thông cáo chung sau khi thảo luận.
Ảnh chụp màn hình bài phân tích của nhà báo Vint Chavala
Ảnh chụp màn hình bài phân tích của nhà báo Vint Chavala
Trong quá khứ đã có rất nhiều quãng thời gian khó khăn và xuất hiện bất đồng trong nội bộ ASEAN nhưng chưa bao giờ dẫn đến một kết cục đổ vỡ không ra được thông cáo chung như hội nghị vừa rồi.
Khi tiếp quản ghế Chủ tịch luân phiên ASEAN trong năm nay, Campuchia đã thực hiện một lập trường kiên quyết về vấn đề biển Đông thay vì cố gắng tìm kiếm những điểm chung giữa tất cả các bên liên quan như các nước Chủ tịch ASEAN đã từng làm trong quá khứ.
Campuchia, nước Chủ tịch luân phiên ASEAN đã quyết định đặt lợi ích riêng của quốc gia mình lên trên sự đoàn kết nội khối. Về lâu dài, điều này sẽ phản tác dụng đối với cả Campuchia và ASEAN.
Động thái đó cũng có thể làm ảnh hưởng đến uy tín của Campuchia cho nỗ lực giành 1 ghế không thường trực vào Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc trong năm tới. Sớm muộn gì Campuchia sẽ nhận ra rằng hành động của họ đã hủy hoại uy tín của khối ASEAN như thế nào.
Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần đầu tiên không thể ra được thông cáo chung là vì Campuchia không làm tròn trách nhiệm của một Chủ tịch luân phiên khối
Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần đầu tiên không thể ra được thông cáo chung là vì Campuchia không làm tròn trách nhiệm của một Chủ tịch luân phiên khối
Trong sự thiếu vắng một bản thông cáo chung về những cuộc thảo luận (của các Ngoại trưởng ASEAN), hành động không thể được thực hiện trên hàng chục quyết định bởi vì thiếu một văn bản chính thức, và ban Thư ký ASEAN sẽ không thể làm bất cứ điều gì về nó. ASEAN cần ngay lập tức khắc phục hậu quả.
Kể từ giai đoạn mở rộng thành viên khối ASEAN những năm 1995 – 1999, ngày càng nhiều quan chức thừa nhận, đặc tính và cách làm việc của ASEAN đã thay đổi rất nhiều đối với việc kết nạp các thành viên mới có bối cảnh chính trị và các thông lệ khác nhau. Chỉ có Campuchia là khó khăn hơn trong việc gia nhập ASEAN vì những nguyên nhân lịch sử của nó.
Chính vì vậy Campuchia là thành viên cuối cùng được thừa nhận gia nhập khối ASEAN trong năm 1999. Khi Campuchia trở thành thành viên thứ 10 của ASEAN, nước này đã nhanh chóng phát triển mối quan hệ với Trung Quốc, một “kẻ thù” trước đó của Phnom Penh.
Trong 12 năm qua, Campuchia và Trung Quốc đã xây dựng mối quan hệ song phương, hợp tác mạnh mẽ hơn bao giờ hết, Trung Quốc cũng đã phát triển một mối quan hệ chặt chẽ với Campuchia và bằng cách nào đó, quan hệ Campuchia – Trung Quốc đã đi xa hơn một chút so với phần còn lại của ASEAN.
Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì và người đồng cấp Campuchia ông Hor Namhong trao đổi riêng bên lề cuộc họp Ngoại trưởng ASEAN tại Phnom Penh
Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì và người đồng cấp Campuchia ông Hor Namhong trao đổi riêng bên lề cuộc họp Ngoại trưởng ASEAN tại Phnom Penh
Thủ tướng Campuchia Hun Sen cho biết, Trung Quốc sẽ là cung cấp một “hỗ trợ tuyệt vời” để đẩy mạnh phát triển kinh tế và vị trí của Campuchia trong khu vực. Ông Hun Sen mong muốn được công nhận là một nhà lãnh đạo đa mang lại hòa bình và thịnh vượng cho đất nước mình cũng như khu vực.
Kể từ khi Campuchia làm Chủ tịch luân phiên ASEAN, quan hệ Campuchia – Trung Quốc được dư luận quan tâm đặc biệt. Người ta chú ý đến phản ứng của Phnom Penh đối với vấn đề biển Đông đang gây căng thẳng giữa một số nước thành viên ASEAN với Trung Quốc.
Trong khi Philippines và Việt Nam luôn nỗ lực nâng cao vai trò, tiếng nói của ASEAN trong vấn đề biển Đông trước Trung Quốc, tuy nhiên với vai trò Chủ tịch luân phiên ASEAN, Campuchia đã luôn tìm cách cản trở hoặc phá vỡ bất kỳ “chủ đề nhạy cảm” nào đối với vấn đề này.
Thống nhất và đoàn kết nội khối ASEAN là điều quan trọng nhất cho sự sống còn của cộng đồng khối cũng như việc bảo lưu các khả năng thương lượng của khối. Nếu mỗi thành viên ASEAN sau đó chỉ chăm chăm lợi ích riêng của nước mình như Campuchia, ASEAN sẽ không có tương lai.
Mỗi thành viên của khối ASEAN được phép theo đuổi lợi ích riêng của họ, đó là sự đồng thuận và không can thiệp công việc nội khối giữa các thành viên ASEAN. Nhưng không có nguyên tắc nào của ASEAN cho phép Chủ tịch luân phiên thực hiện điều này mà không cần xem xét tiếng nói của đa số các thành viên khác.
Theo GDVN

Thứ Hai, 23 tháng 7, 2012

Học giả Trung Quốc phân tích 5 tử huyệt trong lý lẽ về đường lưỡi bò


Tại sao sau khi nước Trung Quốc mới được thành lập, để thể hiện “tình cảm” của mình với Việt Nam, Trung Quốc lại tự xóa đi 2 đoạn trên bản đồ trong khu vực vịnh Bắc Bộ? Phải chăng Trung Quốc coi việc sửa đường biên giới quốc gia như trò đùa?

Ông Tiết Lý Thái - học giả, nhà bình luận nổi tiếng của trang báo mạng Phượng Hoàng (Hồng Kông, Trung Quốc) trong bài viết đăng trên tờ báo mạng trên ngày 20/7 cho rằng, tranh chấp chủ quyền tại Nam Hải (Biển Đông) giữa Trung Quốc và Việt Nam có dấu hiệu ngày càng căng thẳng trong thời gian qua, trong đó việc Tổng công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc (CNOOC) thông báo mời thầu quốc tế vào cuối tháng 6 vừa qua khiến tình hình càng thêm phức tạp.

9 lô dầu khí mà Tổng công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc thông báo mời thầu nằm ở phía Đông đường 9 đoạn, tuy nhiên nó lại nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển. 

Học giả Trung Quốc phân tích 5 tử huyệt trong lý lẽ về đường lưỡi bò
Học giả Trung Quốc phân tích 5 tử huyệt trong lý lẽ về đường lưỡi bò

Ông Tiết Lý Thái cho rằng: Nếu Trung Quốc giải thích và muốn cộng đồng quốc tế công nhận đường 9 đoạn là đường biên giới quốc gia thì khó khăn sẽ không hề nhỏ, ít nhất sẽ gặp phải những thách thức sau:

Thứ nhất, Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc mới đầu chỉ vẽ ra 11 đoạn trên bản đồ nước mình, mà không hề tiến hành phân định biên giới trên biển với các nước láng giềng xung quanh, cũng chưa từng có động thái hòng nhận được sự công nhận của cộng đồng quốc tế. Về bình diện luật pháp quốc tế cũng chưa có sự giải thích rõ ràng, chi tiết nào. Nói một cách nghiêm túc thì đây mới chỉ là “tự nói lời của mình”.

Thứ hai, cho đến hiện nay, Trung Quốc vẫn chưa nói rõ, đường 9 đoạn là đường biên giới quốc gia đứt khúc hay là đường giới tuyến trên biển truyền thống. Đến một định nghĩa cũng không có, hơn nữa cũng chưa ghi rõ kinh độ, vĩ độ trên vị trí địa lý, mà đơn thuần chỉ là vẽ ra các đường đứt đoạn trên bản đồ của mình, thì làm sao mà thuyết phục được người khác?

Thứ ba, nếu như Bắc Kinh nhấn mạnh đường 11 đoạn mà Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đưa ra ban đầu là đường biên giới quốc gia không thể xâm phạm, thì thử hỏi tại sao sau khi nước Trung Quốc mới được thành lập, để thể hiện “tình cảm” của mình với Việt Nam, Trung Quốc lại tự xóa đi 2 đoạn trên bản đồ trong khu vực vịnh Bắc Bộ? Phải chăng Trung Quốc coi việc sửa đường biên giới quốc gia như trò đùa?

Thứ tư, theo học giả này, nếu như Bắc Kinh khẳng định đường 9 đoạn là đường biên giới quốc gia, sau khi thống nhất đất nước vào năm 1975, trong thời gian 30 năm, Việt Nam đã chiếm hữu đến 30 hòn đảo lớn nhỏ một cách liên tục, mà Bắc Kinh trong các lần phản đối ngoại giao lại không hề có lần nào nêu ra vấn đề trên?. Điều này là hoàn toàn không bình thường.

Cuối cùng, Biển Đông là tuyến vận tải của hơn 80% hàng hóa chiến lược của khu vực Đông Bắc Á, trong đó bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, của hơn 40 % hàng hóa chiến lược của hầu hết các quốc gia phương Tây. Nếu như nói tuyến đường vận tải trên Biển Đông là tuyến đường sinh mạng của các quốc gia phương Tây cũng không có gì là quá.

Nếu "đường 9 đoạn" được tuyên bố là đường biên giới quốc gia của Trung Quốc, khi Mỹ và các đồng minh chuyển dịch lực lượng quân sự giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, bất cứ lúc nào, họ  đều có thể bị coi là ở vị trí phi pháp và sẽ bị cản trở mạnh mẽ. Như vậy liệu cộng đồng quốc tế có chấp nhận tuyên bố của Trung Quốc? 

Học giả Tiết Lý Thái cho rằng: ngày nay, cư dân mạng Trung Quốc không ngừng hô hào những luận điệu hiếu chiến trong thế giới ảo. Tuy nhiên sau khi thoát khỏi thế giới ảo, chúng ta phải trở về thế giới thực tại.

XUÂN DẦN (TIỀN PHONG ONLINE)

Thứ Năm, 19 tháng 7, 2012

Việt Nam có chứng cứ chủ quyền với Hoàng Sa, Trường Sa


Ngày 15/7/2012, mạng Thời báo tự do của Đài Loan đưa tin, nước này đang xem xét kéo dài thêm 500m đường băng trên đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

Việt Nam có chứng cứ chủ quyền với Hoàng Sa, Trường Sa
Việt Nam có chứng cứ chủ quyền với Hoàng Sa, Trường Sa
Cùng ngày, hãng Thông tấn CNA của Đài Loan cũng cho biết phía Đài Loan đã tổ chức đưa một đoàn học giả trẻ thuộc Đại học Thành Công ra đảo này.

Trước những thông tin trên, đại diện Ủy ban Biên giới quốc gia, Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định “Việt Nam có đầy đủ chứng cứ pháp lý và lịch sử khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”.

“Mọi hoạt động của các bên tại khu vực quần đảo Trường Sa mà không có sự chấp thuận của Việt Nam là vi phạm chủ quyền của Việt Nam, vi phạm luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, đi ngược lại tinh thần Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), gây căng thẳng tình hình Biển Đông”, vị đại diện này nhấn mạnh, đồng thời yêu cầu phía Đài Loan “chấm dứt các hoạt động và kế hoạch tương tự”.

Trước đó, ngày 11/7/2012, trong một bài viết đăng trên mạng Phượng Hoàng (Hongkong – Trung Quốc), Ủy viên Trung ương Quốc dân Đài Loan Khâu Nghị nói “vùng biển xung quanh đảo Thái Bình thuộc chủ quyền Đài Loan”.
Trả lời câu hỏi của phóng viên về phản ứng trước phát biểu này, đại diện của Ủy ban Biên giới quốc gia, Bộ Ngoại giao đã lên tiếng “bác bỏ phát biểu sai trái này”.

Thứ Ba, 17 tháng 7, 2012

Không được sợ hãi trước sự đe dọa của Trung Quốc khi đàm phán


“Người đàm phán phải không chịu sức ép, sợ hãi trước sự đe dọa. Và không vì thái độ ngang ngược của họ mà người đàm phán hoang mang hoặc có những phản ứng không thích hợp”.

Bình tĩnh và khéo léo

Trước một Trung Quốc mạnh về nhiều mặt và luôn đưa ra những yêu sách không có cơ sở mà chỉ dựa vào ý thức chủ quan của họ, việc đàm phán để các bên có thể đi đến một thỏa thuận về Biển Đông dường như là vô cùng khó khăn. Chính vì vậy, những kinh nghiệm trong quá trình đàm phán với Trung Quốc về đường biên giới trên đất liền và trên Vịnh Bắc Bộ trở nên hết sức quý báu. Là người đã trực tiếp tham gia đàm phán với Trung Quốc trong nhiều năm qua về biên giới, hơn ai hết, TS. Trần Công Trục - nguyên trưởng Ban biên giới Chính phủ rất rõ những điều này.

Trao đổi về những kinh nghiệm đàm phán với Trung Quốc, TS. Trần Công Trục nói: “Trong quá trình đàm phán với Trung Quốc có rất nhiều bài học. Theo tôi, ngoài việc người đàm phán phải tuyệt đối tuân thủ những phương án mà cấp trên đã duyệt thì còn phải rất bình tĩnh, phải rất khéo léo. Đó cũng phải là người không chịu sức ép, sợ hãi trước sự đe dọa. Và không vì thái độ ngang ngược của họ mà người đàm phán hoang mang hoặc có những phản ứng không thích hợp.

TS. Trần Công Trục kể: “Trong lần chúng ta đàm phán để khai thông tuyến đường sắt Đồng Đăng – Bằng Tường, Trung Quốc luôn áp đặt quan điểm của họ là đường biên giới đi qua đường nối ray còn Việt Nam khẳng định đường biên giới đi qua một nhà mái bằng cách điểm nối đường ray là 300 m. Trong quá trình xử lý, đã có nhiều cuộc đụng độ xảy ra, rất căng thẳng.

Sau này, chúng ta phân tích thấy quan điểm mà cả 2 nước đưa ra đều có điểm chưa đúng. Hai bên cùng đưa ra những quan điểm mà đều dựa trên lợi ích của cả hai nước. Chúng ta đã kiên trì để thuyết phục họ và tìm ra giải pháp tạm thời mà hai bên có thể chấp nhận với nhau để khai thông tuyến đường sát quan trọng này: các cơ quan quản lý như công an, hải quan của cả hai nước khi đi đến hai điểm do hai nước đưa ra thì dừng lại ở đó, để cho người lái tàu kỹ thuật đi qua, còn việc giải quyết đường biên giới sẽ đàm phán sau”.

Tôn trọng sự thực khách quan và cầu thị

Ông Trục nói tiếp: “Khi đàm phán, chúng ta phải thể hiện được tính khách quan, sự cầu thị. Ở phía Trung Quốc tuy có những người ở phái diều hâu nhưng cũng có nhiều người Trung Quốc biết tôn trọng luật pháp quốc tế. Nếu điều gì chúng ta nêu ra mà chưa đúng thì chúng ta phải có bản lĩnh để phân tích và báo cáo sau đó thay đổi. Chúng ta không khăng khăng cho rằng những yêu cầu mà chúng ta đưa ra là hoàn toàn đúng khi đã phát hiện ra có vấn đề.

Bây giờ chuyện trên biển cũng thế, ai cũng biết Trung Quốc đưa ra đường biên giới “lưỡi bò” quá vô lý. Theo tôi, có lẽ một bộ phận trong số họ cũng đã thấy điều đó là phi lý bởi bằng chứng là một số học giả Trung Quốc cũng đã có ý kiến tương đối đúng đắn về việc này. Tuy nhiên do lãnh đạo Trung Quốc đã tuyên truyền rằng diện tích biển trong “đường lưỡi bò” kia là của Trung Quốc nên khi muốn rút lại lời tuyên truyền như thế thì cũng không dễ dàng và phải có quá trình để họ đảm bảo ổn định trong nội bộ. Chúng ta không chấp nhận “đường lưỡi bò” nhưng đó thực sự là một quá trình mà chúng ta phải cố gắng thuyết phục để họ hiểu sự thực khách quan mà bỏ đi”.

Theo lời ông Trục kể câu chuyện thứ hai là trong lần đàm phán để xác định đường biên giới trên biển tại Vịnh Bắc Bộ, chúng ta luôn khăng khăng rằng đường biên giới trên Vịnh này phải căn cứ theo hiệp định Pháp - Thanh ký để lại và theo đường kinh độ 108o03’¬13” kéo dài từ đường biên giới đất liền của hai nước ra phía ngoài đảo Trà Cổ làm đường biên giới trên biển…

Trung Quốc họ phản đối điều này và hai bên đã tranh cãi nhau rất nhiều. Sau đó chúng ta nghiên cứu kỹ lại, chúng ta đã có đủ tài liệu để chứng minh rằng đó không phải là đường biên giới trên Vịnh Bắc Bộ mà đó là đường ria để quản lý các đảo ven bờ mà kết thúc với độ dài 10 km chứ không kéo dài ra thêm. Việc đó thể hiện rằng chúng ta tôn trọng sự thực khách quan.

“Và tôi nghĩ lãnh đạo Trung Quốc cũng cần phải học điều này. “Đường lưỡi bò” mà họ đưa ra là hoàn toàn phi lý, vi phạm nghiêm trọng Công ước Luật Biển và họ nên bỏ ngay yêu sách này đi. Trong thời buổi hiện nay, không phải nước nào muốn xâm chiếm, muốn thôn tính nước khác cũng dễ dàng bằng các tuyên bố chủ quyền một cách không có cơ sở như vậy”, ông Trục cho biết.


Kiên trì và không từ chối sự giúp đỡ để chống lại bất công

Khi được hỏi về việc Việt Nam đòi lại quần đảo Hoàng Sa đã chiếm đóng từ năm 1974 đến nay, ông Trục nói: “Việc đòi lại Hoàng Sa không hề đơn giản mà phải có quá trình. Và chúng ta phải kiên trì để đòi lại. Theo luật pháp quốc tế thì có 2 yếu tố củng cố cho quyền lãnh thổ đó là yếu tố vật chất và ý thức. Về vật chất thì đó là sự chiếm đóng, sự hiện diện và cai quản trên quần đảo đó.

Điều này chúng ta không còn nữa do Trung Quốc đã dùng vũ lực chiếm đóng. Về yếu tố tinh thần thì chúng ta vẫn luôn khẳng chủ quyền tại quần đảo này, rằng đó là một đơn vị hành chính trực thuộc TP. Đà Nẵng. Chúng ta không bao giờ từ bỏ về mặt ý chí.

Trên phương diện pháp lý, khi đưa ra cơ quan tài phán quốc tế, họ sẽ xem xét cả hai yếu tố đó, đối với yếu tố vật chất, họ sẽ xem xét rằng yếu tố vật chất bị mất do nguyên nhân gì: tự nguyện từ bỏ hay bị xâm chiếm…. Do đó, có thể thấy rằng về mặt pháp lý, chúng ta có cơ sở vững chắc hơn rất nhiều”.

Trước thông điệp của Thời báo Hoàn cầu về việc nếu kết thân với Mỹ, Việt Nam chỉ “nhận được những đau đớn”, ông Trần Công Trục nói: “Đó được coi như một sự dọa dẫm và là một sự thường tình của người Trung Quốc bấy lâu nay. Điều đó cũng thể hiện một sự e ngại đối với Mỹ của Trung Quốc. Việc Mỹ có mặt tại Biển Đông không phải do Việt Nam muốn. Vì lợi ích của mình, Mỹ phải vào cuộc và ủng hộ cho những nước mà họ đã có cam kết về mặt pháp lý.

Khi chúng ta tính toán các mối quan hệ, chúng ta không bao giờ có chủ trương dựa vào một nước nào đó để chống lại một nước thứ 3 và càng không có tư tưởng đó khi Trung Quốc là hàng xóm của ta với những cam kết mà lãnh đạo cấp cao của hai bên đã ký kết. Nhưng Trung Quốc đã áp những điều phi lý gây ra sức ép thì chúng ta hoan nghênh sự ủng hộ quốc tế. Nếu các nước giúp chúng ta chống lại những sự bất công đó thì chúng ta không có lý do gì để từ chối sự giúp đỡ đó”.

Không còn là “tàu lạ”


Biết rõ mười mươi, thế mà vì “tế nhị”, báo chí cứ phải nói trại đi là “tàu lạ”. Bọn “lạ” này không như kiểu “hải tặc Somaly”, mà khoác áo ngư phủ, được trang bị vũ khí hiện đại để hoạt động trên biển, theo một kịch bản tổng thể đã được soạn sẵn nhằm thực hiện từng bước có bài bản tham vọng bành trướng.

Tàu cá ngư dân Việt Nam thường xuyên hoạt động trên vùng biển thuộc chủ quyền Tổ quốc
Tàu cá ngư dân Việt Nam thường xuyên hoạt động trên vùng biển thuộc chủ quyền Tổ quốc

Ấy thế mà báo chí ta, để không muốn làm xấu thêm tình hình, đã dằn lòng gọi những kẻ xâm phạm chủ quyền đất nước bắt giữ tàu thuyền, hành hung, ngược đãi và đòi tiền chuộc ngư dân ta là “tàu lạ”. Cho dù biết rằng “tàu thì “lạ”, nhưng “bụng dạ thì lại quá quen”, chúng ta vẫn cứ phải nhẫn nhịn vì “đại cuộc” theo đúng nghĩa.

Và rồi khi họ công khai ngang ngược tuyên bố mời thầu quốc tế dầu khí tại 9 lô hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của ta, được luật pháp quốc tế công nhận. Nói nôm na, đây là kiểu “chia lô, bán nền trên cái sân nhà của người hàng xóm” thì cùng với “cái lưỡi bò” ham hố thè ra muốn liếm trọn biển Đông, bộ mặt thật của họ đã phơi ra. Thế mà, vừa ăn cướp vừa la làng. Tờ “Thời báo Hoàn Cầu” (Trung Quốc) lại lu loa “Việt Nam tạo sóng ở Biển Đông”, rồi đe dọa “mũi giáo và đối tượng chính cần nhằm vào là Việt Nam”. Theo báo “Tin Tức Trung Quốc”, 30 chiếc tàu, mỗi chiếc có trọng tải từ 140 tấn trở lên xuất phát từ cảng Tam Á, chia thành hai biên đội đang tiến đến khu vực gần đảo Đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, vùng biển Trường Sa. Thế là không còn “tàu lạ” nữa nhé!

Mấy ngày qua, trước áp lực quốc tế với những tín hiệu được phát ra, những toan tính của họ đã lộ mặt và bị lên án, túng phải tính, “Thời báo Hoàn Cầu” đã ngang ngược nói càn: “Việt Nam đã thừa nhận mô hình phát triển của Trung Quốc” và vì thế “Hà Nội sẽ đớn đau vì giúp Mỹ quay lại” cho nên “con đường sống còn duy nhất cho Việt Nam là phối hợp với Trung Quốc nhằm hạn chế chính sách can dự của Mỹ tại châu Á”. Vậy là rõ.

“Họa trung hữu phúc”, trong cái họa có cái may. Nhân dân ta đã thấy rõ hơn diện mạo của kẻ đã từng lên giọng đạo cao đức trọng với những lời đường mật lừa mị. Những lời tế nhị và nhẫn nhịn đầy thiện chí của ta khác xa những hành xử ngang ngược, công khai xâm phạm chủ quyền quốc gia của ta, chà đạp lên luật pháp quốc tế của một số thế lực hiếu chiến ở Trung Quốc.

Hai từ “tàu lạ”, vì thế, nên đưa vào bảo tàng để con cháu ta sau này biết được rằng ông cha chúng từng linh hoạt, mềm dẻo trong sách lược ngoại giao, nhưng luôn đầy đủ bản lĩnh và khí phách trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.

Trước sau như một, nhân dân ta không mong muốn gì hơn được làm bạn thật sự với người láng giềng khổng lồ, tôn trọng tình hữu nghị với nhân dân Trung Quốc, minh bạch và công khai trong hòa bình trao đổi để có giải pháp hợp lý hợp tình, phù hợp với luật pháp quốc tế, đồng thời mài sắc tinh thần cảnh giác, nung nấu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, đặc biệt đối với thế hệ trẻ.