Trang

Hiển thị các bài đăng có nhãn Chủ quyền Biển Đông. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Chủ quyền Biển Đông. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 26 tháng 4, 2012

Trung Quốc làm càn trên biển Đông


Trong mấy ngày qua, dư luận Trung Quốc đang xôn xao trước bài viết đăng trên trang web của Thời báo Hoàn Cầu hôm 23.4 và được hàng loạt trang tin điện tử của Trung Quốc đăng lại, chỉ trích “Trung Quốc đã làm càn trên biển Đông”.

Bài viết được đăng trong bối cảnh căng thẳng giữa Bắc Kinh và Manila xung quanh tranh chấp trên vùng đảo Scarborough/Hoàng Nham đang ngày càng “nóng”, khiến quốc tế hết sức lo ngại. Với nhan đề Mỹ choáng váng: Trung Quốc bài binh bố trận trên biển Đông vượt quá dự liệu, bài viết chỉ ra, bất chấp cảnh báo của Mỹ và Nhật Bản, nhưng những hành động cứng rắn của Trung Quốc trên biển Đông chưa khi nào ngừng.

Thời báo Hoàn Cầu hôm 23.4 chỉ trích “Trung Quốc làm càn trên biển Đông”.
Thời báo Hoàn Cầu hôm 23.4 chỉ trích “Trung Quốc làm càn trên biển Đông”.
Bài viết đặt vấn đề, trong vấn đề biển Đông, chính phủ Trung Quốc luôn chiếm quyền chủ động. Mặc dù dư luận trong nước cho rằng, hải quân Trung Quốc trên biển Đông còn rất yếu, nhưng thực tế thì sao?

Trước đây Hãng dầu khí của Anh BP đã từng đạt được thỏa thuận với Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PetroVietnam) khai thác các giếng khí đốt Mộc Tinh và Hải Thạch tại biển Đông, ngoài khơi thềm lục địa của Việt Nam. Nhưng trước sức ép của Bắc Kinh BP phải rút lui khỏi dự án này. “Nếu hành động này chỉ xảy ra một lần vẫn còn chấp nhận được, nhưng lặp đi lặp lại nhiều lần, có thể thấy thái độ của Trung Quốc đối với biển Đông, can thiệp vào các thoả thuận này là vô lý”, bài báo viết.

Do không có đủ năng lực tự khai thác dầu, các nước Đông Nam Á thường phải tìm kiếm những công ty phương Tây hợp tác khai thác dầu ở biển Đông. Nhưng vì tàu chiến, máy bay của hải quân Trung Quốc luôn xuất hiện dày đặc. Hơn nữa Bắc Kinh còn thành lập thành phố Tam Sa, xây dựng sân bay trên đảo Vĩnh Hưng (Phú Lâm), nên họ không thể yên ổn khai thác dầu trên biển Đông.
Tàu chiến Trung Quốc diễn tập bắn đạn thật trên biển Đông
Tàu chiến Trung Quốc diễn tập bắn đạn thật trên biển Đông

Cũng có một số công ty nhỏ muốn thử, nhưng liền gặp phải sự khống chế của hai “ông lớn”: Tổng công ty Dầu khí Quốc gia Trung Quốc (CNPC) và Tổng công ty Dầu khí – Hóa chất Trung Quốc (Sinopec) -luôn vươn ra khắp thế giới tìm mua dầu khí, liên kết khai thác dầu mỏ… Hành vi khống chế này cũng không phải chỉ xảy ra trong một thời gian ngắn.

Ngoài Malaysia có những mỏ dầu gần bờ,còn hầu hết các mỏ dầu đều xa bờ, các công ty phương Tây đều không muốn làm mếch lòng Trung Quốc. Tuy nhiên, cho dù Malaysia có những mỏ dầu gần bờ, nhưng nếu mở bản đồ ra xem cho thấy, Trung Quốc chủ trương đẩy đường giới tuyến trên biển đến sát vùng đặc quyền 12 hải lý của Malaysia.

Điều đó có nghĩa là, vùng đặc quyền kinh tế cũng không thuộc về Kuala Lumpur. Đến bãi ngầm James Shoal nằm ở phía đông Malaysia, còn được Bắc Kinh coi là điểm cực nam của nước này, cho thấy sự tưởng tượng quá mức cùng với sự gian tà tột cùng của họ.

Cái bản đồ “đường lưỡi bò” vốn do chính quyền Trung Hoa dân quốc vẽ ra trên biển Đông, nay được Bắc Kinh ra sức tuyên truyền để có sự chấp nhận của dân chúng trong nước cũng như quốc tế. Từ xưa đến nay, đối với các nước như Brunei, Malaysia… Trung Quốc vẫn luôn vẽ đường phân tuyến tới “tận cửa nhà người ta”. Sau đó phân hóa Myanmar, Thái Lan, Campuchia… chia rẽ các nước ASEAN, nhấn chìm Philippines và từng bước gặm nhấm Việt Nam.

"Đường lưỡi bò" vô lý đăng trên bản đồ Hành chính và Du lịch tỉnh Hải Nam (Trung Quốc), năm 1999
"Đường lưỡi bò" vô lý đăng trên bản đồ Hành chính và Du lịch tỉnh Hải Nam (Trung Quốc), năm 1999

Thập niên 1930 – thời kỳ cực thịnh của chính quyền Trung Hoa dân quốc. Trong thời kỳ đó, một nhóm chuyên gia tìm cách mở rộng lợi ích dân tộc Hán. Một số người du học trở về đem theo những bản đồ hàng hải của Anh, Pháp, Mỹ, Nhật và tìm tất cả các loại đảo trên khắp tấm bản đồ đó, chỉ cần có lợi cho Trung Quốc liền đánh dấu hết lên trên đó.

Một nhóm chuyên ra trong nước thì tìm kiếm các tư liệu sử sách cũ, từ các đời Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh để mò mẫm những tuyến lãnh hải nhằm tuyên bố chủ quyền. Một lần, họ phát hiện ra một dải đá ngầm mang tên James Shoal. Họ đã đẩy đường giới tuyến biển xuống đến đó, dừng lại đó vì xét thấy không thể mở rộng được nữa, nếu không, sẽ đưa Malaysia nhập vào lãnh thổ Trung Quốc.

Năm 1935, Trung Hoa dân quốc đã cho công bố tên gọi dải đá ngầm James Shoal này là dải đá ngầm Tăng Mẫu, đồng thời tuyên bố rằng đây chính là ranh giới cực nam vỹ độ thấp nhất thuộc phạm vi lãnh thổ của Trung Quốc.

Sau khi Trung Quốc mới ra đời, Trung Hoa dân quốc bị đẩy ra đảo Đài Loan cho đến ngày nay. Mặc dù đối đầu nhiều vấn đề, nhưng riêng về “đường lưỡi bò” này cả Trung Quốc đại lục và Đài Loan dễ dàng có tiếng nói chung.

“Do địa lý biển Đông quá lớn, khoảng cách giữa các đảo cũng tương đối xa, mặc dù được gọi là biển Nam Trung Hoa, tuy nhiên, điều này không có nghĩa đây là vùng biển của riêng Trung Quốc. Nói theo cách đó, không lẽ Ấn Độ Dương thuộc về Ấn Độ?”. Bài viết lập luận.

Ai đã khiến cho biển Đông dậy sóng? Bài viết đặt câu hỏi.


Trung Quốc đã làm càn trong các cuộc xung đột từng xảy ra trên biển Đông. Bài viết thuật lại những trận đánh chiếm của hải quân Trung Quốc lên quần đảo Hoàng Sa năm 1974 và Trường Sa năm 1988.

Năm 1989, sau khi chiếm được một số đảo trên quần đảo Trường Sa, với ý đồ lôi kéo sự thừa nhận của Liên hợp quốc, trong vai trò là Uỷ viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Bắc Kinh kêu gọi UNESCO lập Trạm quan sát hải dương trên dải đá Chữ Thập (Fiery Cross Ree, Trung Quốc gọi là Vĩnh Thử), hàm ý rằng, ai dám đánh chiếm dải đá Chữ Thập, chính là đối đầu với Liên hợp quốc.

Phần cuối, bài viết đưa ra kết luận: “Bắc Kinh ngày càng thích gây ra rắc rối trên biển Đông. Trung Quốc đã tát vào mặt người khác, rồi tỏ thái độ tức giận rằng, họ đã tự đập mặt vào tay mình”.

Thứ Hai, 23 tháng 4, 2012

Chủ quyền biển Đông


“Thế” trong nghệ thuật quân sự là tình thế, thế nước, thế trận, thế bố trí lực lượng trên địa hình địa lý.
Thế lấy lực làm cơ sở, do lực quyết định, nhưng thế lợi, thế hiểm thì biến lực nhỏ thành lớn và ngược lại một lực lớn nhưng ở vào thế bất lợi, mất thế thì bị suy yếu.
Lịch sử trong các lần dân tộc ta phải đối đầu với quân xâm lược thì lực lượng của chúng ta lúc đầu bao giờ cũng nhỏ và yếu hơn địch. Quy luật khắc nghiệt của chiến tranh là mạnh thì thắng mà yếu thì thua, nhưng ta thắng, chứng tỏ dân tộc ta rất giỏi trong nghệ thuật tạo thế.
Chúng ta luôn luôn có thế lợi, thế hiểm nên lực lượng nhỏ biến thành lớn, đặc biệt biết dùng mưu, trí để đưa địch vào chỗ bất lợi, thế ta cài sẵn làm cho địch càng suy yếu thêm. Chúng ta đã biến yếu thành mạnh để thắng trong chiến tranh.
Truong Sa
Trường Sa - Hòn đảo tiền tiêu nơi ngàn trùng sóng gió, vẫn hiên ngang bất khuất, là phên dậu vững chắc của Tổ quốc Việt Nam

Thế, có ý nghĩa quan trọng quyết định thành bại của chiến tranh như vậy nên tạo thế không phải dễ dàng, không chỉ đơn thuần là công việc của các nhà quân sự mà là cả một hệ thống chính trị, bao gồm đối nội, đối ngoại trên các lĩnh vực chính trị tư tưởng, quân sự, ngoại giao, kinh tế…
Như vậy, hệ thống phòng thủ bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) của Việt Nam, nói cách khác là công cuộc BVTQ Việt Nam trong tình hình hiện nay có bảo đảm chắc chắn hay không phụ thuộc vào tình thế (khu vực, thế giới), thế nước, thế trận và thế bố trí lực lượng phòng thủ.
Trong đó, thế nước là yếu tố quyết định thành bại của công cuộc phòng thủ BVTQ.
Trước hết, hệ thống phòng thủ BVTQ chúng ta tồn tại trong một tình thế (khu vực, thế giới) thuận lợi mà ta đã nắm bắt kịp thời, khai thác tối đa.
Tình hình khu vực hiện nay, dễ nhận thấy nguy cơ thách thức an ninh chủ quyền, quyền chủ quyền đến biển đảo Việt Nam trên biển Đông là hiện hữu và đang trở thành một điểm nóng khiến thế giới quan tâm.
Tranh chấp chủ quyền các đảo, quyền chủ quyền vùng biển trên biển Đông với một bên cậy thế nước lớn, không theo luật pháp quốc tế và một bên là những nước nhỏ trong đó có Việt Nam kiên quyết bảo vệ quyền của mình theo luật pháp quốc tế.
Đương nhiên khi biển Đông còn tồn tại đan xen quyền lợi, lợi ích của nhiều quốc gia về kinh tế cũng như quốc phòng thì không ai có thể chiếm đoạt toàn bộ biển Đông mà không có cơ sở pháp lý nào.

Bastion-P
Hệ thống tên lửa bờ biển Bastition sử dụng tên lửa YAxon. Mỗi tổ hợp tên lửa Bastion có thể bao gồm 36 quả tên lửa có cánh Yakhont. Các tên lửa tự dẫn siêu thanh chống tàu với đầu đạn nặng hơn 200 kg này có thể đánh trúng các mục tiêu ở khoảng cách lên tới 300 km. Mỗi tổ hợp có thể bảo vệ dải bờ biển dài hơn 600 km và giám sát vùng biển có diện tích 200 km2.

Tuân thủ luật quốc tế về biển, Việt Nam được sự ủng hộ, giúp đỡ và trở thành đối tác chiến lược của các quốc gia có mối quan tâm ở biển Đông như khối ASEAN, Nga, Ấn Độ…
Đặc biệt, Nga một siêu cường quân sự đã giúp Việt Nam về VKTB cho phòng thủ, có những loại vũ khí hiện đại vào loại bậc nhất trên thế giới như Bastion-P mà ngoài Nga ra chỉ có ở Việt Nam.
Đó chính là những thành tựu nổi bật nhất trong công tác đối ngoại của Việt Nam ghi đậm dấu ấn trong năm 2010 và 2011.
Ngoài ra sự trở lại của Mỹ ở châu Á-TBD cũng khiến cho khả năng hoạt động quân sự ở khu vực biển Đông trở nên đa phương, ràng buộc nhau hơn.
Đây là tình thế có lợi cho Việt Nam. Trong cuộc chiến ở biển Đông nếu xảy ra, Việt Nam không chỉ có riêng mình.
Thứ hai là thế nước. Một hệ thống phòng thủ đất nước với vũ khí trang bị tối tân hiện đại đến mấy, thậm chí có bom hạt nhân mà thế nước suy, có nghĩa là nội bộ lãnh đạo mất đoàn kết, bạc nhược, tham sống sợ chết, lòng dân oán hận, căm ghét chế độ…thì ngay như Liên Xô trước đây chưa đánh đã tan.
Gần đây có I-Rắc, Li Bi…là một bài học nhãn tiền. Họ không thiếu vũ khí hiện đại, không thiếu tiền…nhưng bạc nhược, người lính không lý tưởng…dù chế độ này có mất đi chả ảnh hưởng gì đến họ thì thất bại là đương nhiên.
Việt Nam khác họ, dân tộc ta, lịch sử ghi nhận dù ở bất kỳ chế độ nào mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì đều đặt đất nước là trên hết.
Đó chính là truyền thông yêu nước mà chúng ta có quyền kiêu hãnh, không thua kém với bất cứ dân tộc nào trên thế giới.
Huống chi ngày nay, đất nước dù còn nghèo nhưng đang trên đà phát triển, chính trị ổn định, yên lành, toàn dân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng CSVN-một tổ chức đầy bản lĩnh, kinh nghiệm dày dạn trong chiến tranh thì có thể nói thế nước đã vững vàng.
Toàn Đảng, toàn dân tộc và các lực lượng vũ trang sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc. Đây chính là sức mạnh dân tộc, sức mạnh vô địch.
Cuối cùng, thế trận, thế địa lý mà hệ thống phòng thủ tồn tại.
Thế trận chiến tranh nhân dân, từ xưa cho tới nay là một thế trận mà không một kẻ xâm lược nào phá vỡ nổi.
Một đất nước mà “sáng trong bão giông, chiều trong mưa lũ”; một đất nước mà có nhiều địa danh quen thuộc, nhắc tên khiến ta tự hào như: Ải Chi Lăng, Bạch Đằng, Rạch Gầm-Xoài Mút, đường Hồ Chí Minh trên biển, đường Trường Sơn…khiến quân xâm lược chẳng mấy thích thú và tự tin khi nghĩ đến.
Hệ thống phòng thủ BVTQ tồn tại trong một thế như này chắc chắn một người bi quan đến mấy vẫn có thể tự tin.

Thứ Tư, 18 tháng 4, 2012

Biển Đông: Cần sự nhìn nhận lịch sử, vô tư và tuân thủ luật pháp quốc tế


Tại Diễn đàn An ninh toàn cầu năm 2012, các đại biểu nhất trí cho rằng Biển Đông sẽ là thách thức chủ đạo đối với an ninh khu vực. Điều này phần nào đã được thể hiện qua những đối đầu căng thẳng gần đây giữa Trung Quốc với tàu thuyền các nước trong khu vực.

Tàu hải giám của Trung Quốc ở Biển Đông.
Tàu hải giám của Trung Quốc ở Biển Đông. Ảnh do Hải quân Philippines cung cấp ngày 10/4/2012.

Hội thảo diễn ra ngày 11/4 do Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) có trụ sở tại Hawaii (Mỹ) tổ chức. Hội thảo thu hút sự tham gia của đại biểu thuộc nhiều thành phần khác nhau, từ giới chức ngoại giao, chuyên gia luật pháp đến giới doanh nghiệp, trong đó có những công ty chuyên về vận tải biển.

Tại buổi hội thảo, Giám đốc phụ trách chương trình Đông Nam Á của CSIS, ông Earnest Bower, khẳng định Biển Đông là “vùng chiến lược nhất” trong khu vực, cả về vấn đề hàng hải và lãnh thổ.

“Biển Đông là khu vực có tranh chấp phức tạp. Vấn đề tự do hàng hải tại đây là một trong những vấn đề chính ảnh hưởng đến an ninh khu vực”.

Đây cũng là quan điểm của Đô đốc James Winnefeld Jr. khi ông này cho rằng Biển Đông đang trở thành thách thức chủ đạo ở châu Á – Thái Bình Dương.

Để giải quyết thách thức chủ đạo này, các đại biểu cho rằng “giải quyết vấn đề Biển Đông chủ yếu là giải quyết với Trung Quốc”.

Nhân tố Trung Quốc trong hồ sơ Biển Đông


Với tên gọi được thể hiện trên các bản đồ quốc tế là “South China Sea” (dịch nghĩa là biển Nam Trung Hoa), không ít người nghĩ rằng đây là vùng biển của Trung Quốc và chính Trung Quốc cũng tự cho là như vậy.

Tuy nhiên trên thực tế, đây chỉ là sự hiểu lầm đáng tiếc vì theo rất nhiều bằng chứng và vật chứng lịch sử được gìn giữ ở nước ta như các chiếu chỉ, sắc phong, thư tịch của  các Triều đại Lê, Nguyễn cách đây nhiều thế kỷ, Việt Nam có chủ quyền thể không tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông.

Không riêng với Việt Nam. Các nước khác trong khu vực cũng vướng vào những tranh cãi tương tự với Trung Quốc khi Bắc Kinh khăng khăng cho rằng họ có chủ quyền đối với 90% Biển Đông, bất chấp thực tế họ chỉ kiểm soát 13%  diện tích.

Lý giải về sự đòi hỏi vô lý này của Trung Quốc, trong phần trình bày của mình tại hội thảo CSIS, ông Bower đã đưa ra bản đối chiếu nhu cầu năng lượng của 6 nước và vùng lãnh thổ nằm trong khu vực này gồm Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Brunei và Đài Loan. Theo đó, nhu cầu năng lượng của Trung Quốc trong hai thập kỷ tới sẽ tăng lên đáng kể và cao hơn nhiều so với các nước khác. 

Trong khi đó, ngay từ cuối những năm 1960, các nhà khoa học đã phát hiện ở Biển Đông có trữ lượng rất lớn dầu và khí đốt tự nhiên. Không chỉ thế, Biển Đông còn có nguồn hải sản vô cùng phong phú, lại án ngữ ngay trên tuyến hàng hải quốc tế quan trọng hàng ngày vận chuyển tới 50% tổng lượng hàng hóa vận tải bằng đường biển của thế giới. Vì vậy, việc tranh chấp chủ quyền là điều khó tranh khỏi, nếu không muốn nói sẽ ngày càng phức tạp hơn.

Cuộc chơi bất đắc dĩ


Từ lâu, Trung Quốc đã chủ ý nhắm tới Biển Đông thông qua việc đẩy mạnh các hoạt động và tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ khu vực nằm trong “đường lưỡi bò” 9 khúc do Bắc Kinh tự vạch ra.

Nhưng đó chỉ là tuyên bố đơn phương của Trung Quốc.

Thông thường, trong các mối quan hệ quốc tế, quốc gia nào cũng sẽ tìm cách mang lại lợi ích kinh tế cho dân tộc mình. Lợi ích càng lớn, nỗ lực càng cao. Thậm chí, trong một vài trường hợp, một số nước còn sẵn sàng sử dụng cả vũ lực để đoạt lấy mục đích.

Những năm gần đây, kinh tế Trung Quốc đã vươn lên hàng thứ 2 thế giới, sau Mỹ. Với một lực lượng lao động đông đảo khoảng 800 triệu người và một nền khoa học – công nghệ tương đối phát triển, nhiều chuyên gia dự báo Trung Quốc rất có thể sẽ “vượt mặt anh cả” trong thời gian không xa.

Và để đáp ứng nhu cầu năng lượng cho tương lai phát triển ấy cũng như cho dân số 1,3 tỷ người hiện nay, Trung Quốc không thể không tận dụng khai thác mọi nguồn tài nguyên, cả trên đất liền và dưới biển. Tất nhiên, câu chuyện này sẽ chẳng có gì đáng bàn nếu như những “miền đất hứa” mà Trung Quốc nhắm đến đều thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Bắc Kinh.

Sau cuộc đối đầu mới đây giữa 2 tàu hải giám của Trung Quốc với 2 tàu chiến của Philippines tại một bãi đá cạn mà cả hai bên đều tuyên bố có chủ quyền (Philippines gọi là Scarborough và Trung Quốc gọi là Hoàng Nham), báo giới Bắc Kinh đã cảnh báo Manila “chớ có đùa với lửa” và rằng những động thái gần đây của Philippines đã “vượt quá sự tha thứ” của Trung Quốc.

Không chỉ “giương cung” với Philippines, Trung Quốc còn đòi “các doanh nghiệp nước ngoài tôn trọng và ủng hộ nỗ lực giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán song phương giữa các quốc gia liên quan, tránh can thiệp vào tranh chấp Biển Đông dưới mọi hình thức”.

Những tuyên bố này của Trung Quốc càng là minh chứng cho nhận định của các đại biểu tham dự Diễn đàn An ninh Toàn cầu 2012 rằng “giải quyết vấn đề Biển Đông chủ yếu là giải quyết với Trung Quốc”.

Cần sự nhìn nhận lịch sử, vô tư và tuân thủ luật pháp quốc tế


Nguyên nhân sâu xa của các cuộc tranh chấp chủ quyền biển đảo trên Biển Đông xuất phát từ tham vọng của một số nước muốn kiểm soát vị trí địa lý quan trọng, những túi dầu khí khổng lồ, nguồn lợi hải sản phong phú và các nguồn lợi vô tận khác của Biển Đông vốn không thuộc về mình.

Tham vọng đó sẽ bị coi là ngang ngược khi nó bất chấp những minh chứng lịch sử, luật pháp quốc tế và nguồn lợi tương ứng của các nước liên quan.

Trong một bài viết gần đây, báo chí Trung Quốc đã công khai thừa nhận các cuộc tranh chấp ở Biển Đông và Hoàng Hải sẽ ngày càng diễn ra mạnh mẽ.

“Bắc Kinh sẽ áp dụng các hành động bảo vệ chủ quyền một cách kiên quyết, đồng thời sử dụng sức mạnh ngày càng lớn của đất nước để hỗ trợ cho những hành động này”, báo Hoàn Cầu của Trung Quốc số ra ngày 12/4 nêu rõ.

Với những tuyên bố này của Bắc Kinh, việc tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông sẽ còn diễn biến phức tạp và kéo dài, đặc biệt khi Trung Quốc đang tuyên bố có chủ quyền tại nhiều vùng vốn đang thuộc chủ quyền của nước khác.

Muốn giải quyết bài toán đầy mâu thuẫn này, đòi hỏi các bên phải nhìn nhận đúng lịch sử, vô tư, công bằng, không vụ lợi và nghiêm chỉnh tuân thủ luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước về luật biển của Liên hợp quốc năm 1982 (UNCLOS). 

Tất nhiên, ngay cả khi đã thực hiện đúng như vậy, nguy cơ xảy ra va chạm nhỏ ở Biển Đông vẫn là điều khó tránh khỏi, do có sự mâu thuẫn lợi ích giữa các nước. Nhưng liệu va chạm nhỏ có bùng lên thành xung đột lớn? Câu trả lời là không vì hiện tại, Mỹ đang ráo riết thực hiện chiến lược chuyển trọng tâm trở lại khu vực châu Á – Thái Bình Dương, trong khi Trung Quốc vẫn “nuôi giấc mộng bá chủ thế giới”.  

“Trung Quốc có những ưu tiên khác như vấn đề Đài Loan, Tây Tạng và Mỹ. Hiện nay, vấn đề Biển Đông không đủ lớn để đánh nhau. Trừ phi ngày mai họ tìm thấy có quá nhiều dầu khí để quyết định đi tới chiến tranh. Mà ngay cả khi các nước tìm thấy tài nguyên thì chiến tranh chưa chắc là giải pháp nhanh chóng hay tốt nhất cho Trung Quốc”, Tiến sĩ Ang Chung Guan - nhà nghiên cứu nổi tiếng về Biển Đông của Singapore – nói.

Thứ Ba, 10 tháng 4, 2012

Trung Quốc chuẩn bị 'đánh úp' biển Đông?


Những sự kiện tranh cãi gần đây tại biển Đông và biển Hoa Đông giữa Trung Quốc và các láng giềng cho thấy Bắc Kinh “chứng nào tật ấy”, không bao giờ ngừng các hành động khiêu khích, thậm chí, có khả năng họ triển khai các cuộc tấn công bất thình lình trong các vùng lãnh hải tranh chấp.

Lùi một bước để tiến ba bước?

Các tranh chấp lãnh thổ gay gắt giữa Trung Quốc và các láng giềng ở biển Đông và Hoa Đông từ lâu trở thành chủ đề nóng và thu hút sự chú ý không nhỏ từ công chúng. Gần như tất cả các quốc gia trong khu vực và con rồng châu Á đều có những “vụ lùm xùm, ầm ĩ” liên quan đến tranh chấp lãnh thổ, từ Hàn Quốc và Nhật Bản cho tới Philippines và Việt Nam.

Muốn ổn định nội, ngoại để chuyển giao thế hệ lãnh đạo diễn ra suôn sẻ đồng thời, tống khứ Mỹ khỏi châu Á – Thái Bình Dương và xóa bỏ hình ảnh “xấu xí” của mình đối với các quốc gia trong khu vực, Trung Quốc tỏ ra mềm mỏng, linh hoạt hơn trong các vấn đề tranh chấp lãnh hải trong khu vực.

Trung Quốc chuẩn bị 'đánh úp' biển Đông?
Trung Quốc đang thay đổi thay đổi cách tiếp cận, tỏ ra mềm mỏng linh hoạt hơn trong các vấn đề tranh chấp lãnh hãi tại biển Đông? Ảnh minh họa: China Daily.

Một bài bình luận mới đây đăng trên Tạp chí Foreign Affairs của Mỹ nhận xét, Trung Quốc đang trở nên ôn hòa hơn, mềm dẻo và linh hoạt hơn trong các vấn đề liên quan đến biển Đông.

Sự thay đổi phương pháp tiếp cận của Bắc Kinh đến từ tháng 6 năm ngoái, được đánh dấu bởi sự kiện Thứ trưởng Ngoại giao Hồ Xuân Sơn của Việt Nam với tư cách là Đặc phái viên của Chính phủ Việt Nam sang Trung Quốc để hội đàm về các vấn đề tranh chấp lãnh hải giữa hai nước. 

Ngay sau đó, Trung Quốc và mười thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đàm phán thành công và bàn việc triển khai Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), liên quan  trực tiếp đến các tranh chấp lãnh hải ở biển Đông ứng xử một cách hợp lý dựa trên các nguyên tắc và luật lệ quốc tế hồi tháng 7/2011.

Đồng thời, đầu năm nay, Trung Quốc cũng có ý định triệu tập các hội thảo về hải dương học và tự do hàng hải ở biển Đông và muốn đối thoại với các quan chức cao cấp ASEAN để thảo luận về việc thực hiện Tuyên bố về ứng xử biển Đông năm 2002. 

Đáng chú ý là, các quan chức cấp cao hàng đầu của Trung Quốc - Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Thủ tướng Ôn Gia Bảo - từng nhiều lần đề cập đến việc thực thi Bộ nguyên tắc chỉ đạo giải quyết các xung đột lãnh hải của Trung Quốc của nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình. Theo đó, các bên liên quan trực tiếp đến tranh chấp lãnh hải trên biển Đông gác lại những yêu sách chủ quyền của mình và cùng khai thác nguồn tài nguyên hàng hải.

Tuy nhiên, trên thực tế, Trung Quốc vẫn chứng nào tật ấy. Chỉ tính riêng tháng ba vừa qua, xảy ra hàng loạt các sự cố liên quan đế tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc với các quốc gia trong khu vực. Như tranh cãi nảy lửa giữa Bắc Kinh và Seoul liên quan đến bãi đá ngầm Iedo dẫn đến việc Hàn Quốc tuyên bố xây dựng nhiều căn cứ hải quân mới trên đảo Baeknyeong và Heuksan để đối phó với các hoạt động xâm nhập trái phép của tàu cá Trung Quốc. 

Bắc Kinh cũng đụng độ với Manlila liên quan đến kế hoạch xây cầu cảng nhằm "phát triển du lịch" ở đảo Thị Tứ thuộc quần đảo Trường Sa và tranh cãi với Hà Nội liên quan đến các động thái thăm dò dầu khí của Việt Nam và các đối tác – các tập đoàn dầu khí quốc tế - ngoài khơi xung quanh vùng lãnh hãi tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc. 

Thậm chí, tranh cãi giữa Việt Nam và Trung Quốc không chỉ dừng lại như là cuộc chiến ngôn từ. Trung Quốc không ít lần bắt giữ tàu cá và ngư dân Việt Nam một cách trái phép, chẳng hạn, vụ hai tàu cá cùng 21 ngư dân Việt Nam thuộc huyện đảo Lý Sơn bị Trung Quốc bắt vào ngày 3/3 vừa qua tại vùng biển Hoàng Sa và bị giam giữ từ đó đến nay.